Môi giới hôn nhân nước ngoài: Vẽ đường cho hươu chạy đúng
PGS Nguyễn Văn Tiệp là Trưởng Khoa Nhân học Trường Đại học KHXH&NV TP.HCM, Đại học Quốc Gia TP.HCM, người có nhiều năm tâm huyết nghiên cứu về vấn đề hôn nhân xuyên quốc gia. Ông cũng đi điền dã tại nhiều tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và cả Đài Loan, Hàn Quốc để tìm hiểu đời sống của các cô gái lấy chồng nước ngoài.
- Đứng ở góc độ một nhà nghiên cứu dân tộc học, ông nhận xét thế nào về tình hình môi giới hôn nhân trái phép với người nước ngoài hiện nay?
Theo tôi ,nói là trái phép vì chúng ta chưa có giải pháp hữu hiệu quản lý vấn đề môi giới hôn nhân với người nước ngoài. Mà cũng chính vì thế, mặt trái của vấn đề này đang lớn dần, rủi ro xảy ra đối với phụ nữ Việt Nam lấy chồng nước ngoài thông qua môi giới hôn nhân trái phép cũng tăng cao.
Ở các nước như Malaysia, Indonesia, Philippines… vào những năm đầu thế kỷ 21 cũng đã từng “nở rộ” tình trạng môi giới hôn nhân trái phép. Thực chất đây là biểu hiện của hình thức di dân từ những quốc gia chậm phát triển sang những quốc gia phát triển.
Thời gian sau, tình trạng này sẽ dần bão hòa do sự mất cân bằng giới. Ở nước ta, đã có nhiều trường hợp môi giới hôn nhân với người nước ngoài làm ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục, xúc phạm đến nhân phẩm người phụ nữ Việt Nam . Nhưng theo tôi, việc cấm là giải pháp chưa triệt để, do lấy chồng nước ngoài là nhu cầu có thực của một bộ phận phụ nữ Việt Nam .
Nói đi cũng phải nói lại, do sự phát triển không đồng bộ của xã hội, các vùng miền, những cô gái đã và đang có ý định, xem việc lấy chồng nước ngoài là một lối thoát. Hầu hết các cô gái bị dụ dỗ bởi những người môi giới hôn nhân trái phép và bị kích thích bởi viễn cảnh sung túc mà một số ít lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc do nỗ lực thích nghi với môi trường sống tại quốc gia mới đã có điều kiện chu cấp tiền bạc cho gia đình tại Việt Nam.
- Theo ông, hình thức xử phạt môi giới hôn nhân trái phép hiện nay đã đủ sức răn đe chưa?
Chắc chắn là không, vì lợi nhuận mà tổ chức môi giới thu được quá cao so với số tiền xử phạt. Chiếu theo Nghị định 150/2005/NĐ- CP, người tổ chức môi giới hôn nhân trái phép chỉ bị xử phạt từ 1.000.000 - 2.000.000 đồng. Nhưng để tăng tiền phạt và hình thức thức xử phạt như dư luận từng đề cập, theo tôi khó khả thi.
Một mặt, như tôi đã phân tích, kết hôn với người nước ngoài là nhu cầu có thực của một bộ phận phụ nữ Việt Nam . Cho dù đó là hành động “cực chẳng đã”, về mặt quản lý nhà nước, chúng ta vẫn nên giải quyết nhu cầu cho họ, vì nếu cấm, họ vẫn tìm cách thông qua những đường dây môi giới chui để đạt mục đích. Vậy tại sao không vẽ đường cho hươu chạy đúng?
![]() |
| Nhiều những cô gái từng là tiếp viên, nhân viên phục vụ, gái nhảy... |
- Vậy từ nghiên cứu dân tộc học có thể giải quyết vấn đề hôn nhân xuyên quốc gia như thế nào?
Tôi cho rằng có thể đặt ra những tiêu chuẩn, ràng buộc về mặt pháp lý đối với môi giới hôn nhân xuyên quốc gia. Từ đó nâng cao mức xử phạt hành chính so với hiện nay cũng như đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những tổ chức môi giới hôn nhân trái phép. Đó là cách lấy hợp pháp để răn đe, xử phạt bất hợp pháp.
Ở nhiều nước Châu Á, môi giới hôn nhân với người nước ngoài là hợp pháp vì nhà nước quản lý chặt chẽ. Cũng theo đó, các trung tâm, tổ chức môi giới hôn nhân xuyên quốc gia phải đóng thuế và tuân thủ những quy định mà luật pháp nước họ đề ra.
Hiện nay, vai trò tư vấn để có nhiều thông tin thẩm định trong hôn nhân xuyên quốc gia ở Việt Nam không cao. Các cô gái lấy chồng nước ngoài hầu hết chỉ quan tâm người mình sắp lấy “hơi giàu” hay “giàu lắm” mà không tìm hiểu nhiều về phong tục tập quán của quốc gia mình sẽ đến. Từ đó, khoảng cách giữa cô dâu Việt Nam với chồng cũng như gia đình chồng ngày một xa, dẫn đến những bị kịch đáng tiếc.
- Đã xảy ra không ít vụ việc, những tổ chức, đường dây môi giới hôn nhân trái phép biến tướng thành tổ chức đường dây mua bán phụ nữ xuyên quốc gia. Hợp pháp hóa việc môi giới hôn nhân với người nước ngoài có khả năng tạo điều kiện cho một số đối tượng xấu dễ dàng núp bóng hoạt động hơn không?
Không tránh khỏi những trường hợp đó, nhưng cơ quan chức năng tại nhiều địa phương cũng đang kiến nghị bổ sung thêm tội danh “buôn người” thay vì chỉ quy định tội danh “mua bán phụ nữ và trẻ em”. Kết hợp vấn đề này với việc hợp pháp hóa hôn nhân với người nước ngoài trên cơ sở giữ gìn thuần phong mỹ tục và giao lưu văn hóa, xã hội, chúng ta càng có sơ sở để phạt nặng những đường dây môi giới hôn nhân trái phép khi biến tướng thành đường dây mua bán phụ nữ.
Nếu không giải quyết để quản lý chặt chẽ hơn, môi giới hôn nhân trái phép có nguy cơ trở thành bóng ma “hộ tống” nạn buôn người.
Quốc Quang









