Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 01/12/2009 16:36 (GMT+7)

Mô hình tích lũy, sử dụng và các yếu tố ảnh hưởng đến việc đo lường tri thức KH&CN trong hoạt động đổi mới ở doanh nghiệp

I. Mô hình tích luỹ tri thức, sử dụng tri thức và vai trò của hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) ở doanh nghiệp

Để tạo ra giá trị, doanh nghiệp phải thực hiện hoạt động đổi mới, tức là phải sử dụng tri thức trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Và để có thể sử dụng tri thức, trước hết doanh nghiệp phải nắm bắt, hay nói cách khác là phải tích luỹ được các tri thức cần thiết cho hoạt động đổi mới của mình. Do đó, song song với mô hình lan toả đã được nghiên cứu trước đây, việc xem xét kỹ hơn về quá trình tích luỹ và sử dụng tri thức trong doanh nghiệp có thể giúp chúng ta hình dung rõ hơn về dòng tri thức trong nền kinh tế và tác động của tri thức KH&CN đối với tăng trưởng kinh tế.

1) Quá trình tích luỹ tri thức ở doanh nghiệp

Theo nghiên cứu của Forray 1, doanh nghiệp tích luỹ tri thức thông qua 2 con đường: Một là, tiếp thu các tri thức sẵn có từ bên ngoài; hai là, tự mình tạo ra tri thức mới.

- Việc tiếp thu tri thức từ bên ngoàilà quá trình nắm bắt các tri thức cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh từ các trường đào tạo (đại học, cao đẳng hay trường dạy nghề), các viện nghiên cứu, doanh nghiệp hay các nguồn khác ở trong nước hay trên thế giới thông qua các hoạt động học tập, chuyển giao công nghệ. Các tri thức tiếp thu từ bên ngoài sẽ được doanh nghiệp tích luỹ qua hình thức học hỏi qua thực hành.

Việc tiếp thu tri thức từ bên ngoài có ý nghĩa rất quan trọng đối với doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bởi phần lớn các tri thức mới sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh đều được tạo ra từ bên ngoài hàng rào của một doanh nghiệp cụ thể. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển do phần lớn các tri thức hữu ích cho sản xuất kinh doanh được tạo ra từ các nước phát triển trên thế giới.

Nhìn chung, sau khi tiếp thu được tri thức từ bên ngoài, các doanh nghiệp có thể sử dụng ngay các tri thức này phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, việc sử dụng tri thức bên ngoài cũng đòi hỏi bản thân doanh nghiệp phải có một năng lực tiếp thu nhất định. Chẳng hạn như: Khả năng nhận biết được nơi nào đang có hay đang tạo ra tri thức cần tiếp thu; hiểu được giá trị của tri thức; biết được cách thức ứng dụng trong thực tiễn và cuối cùng là năng lực đồng hoá để sử dụng một cách thích hợp tri thức mới trong điều kiện cụ thể của doanh nghiệp mình. Vì lẽ đó, năng lực tiếp thulà vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp trong hoạt động đổi mới.

Các yếu tố có thể ảnh hưởng đến năng lực tiếp thu tri thức từ bên ngoài của doanh nghiệp bao gồm: Trình độ và kỹ năng của người lao động (hay còn gọi là nguồn vốn con người), năng lực tổ chức thực hiện R&D, khả năng kết nối với các nguồn tri thức bên ngoài, sự tiếp cận tới những tri thức đã được nhúng hay được vật thể hoá trong các thiết bị, máy móc hay nguyên vật liệu cần thiết cho sản xuất. Trong cơ chế thị trường cạnh tranh, tính loại trừ của một số tri thức (đã được bảo hộ thông qua các quyền sở hữu trí tuệ) cũng có ảnh hưởng quan trọng tới việc tiếp thu tri thức của doanh nghiệp.

- Việc tạo ra tri thức mớitrong phạm vi doanh nghiệp có thể thông qua 2 con đường:

Thứ nhất,các tri thức mới có thể được tạo ra từ các ý tưởng mới nảy sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp. Xét về nguyên tắc, con người có thể tiếp cận, tìm hiểu thực tiễn để trau dồi và tạo ra tri thức mới từ những gì xảy ra xung quanh họ. Cách sáng tạo tri thức mới này được gọi là sáng tạo qua thực hành.

Thứ hai,các tri thức mới có thể được tạo ra thông qua các hoạt động R&D có chủ ý của doanh nghiệp. Trên thực tế, phần lớn các hoạt động này xuất phát từ yêu cầu giải quyết các bài toán thực tiễn mà doanh nghiệp đang phải đối mặt. Đối với các doanh nghiệp lớn, các hoạt động R&D có tính độc lập nhất định và có thể tách biệt khỏi các hoạt động sản xuất thường ngày của doanh nghiệp.

Theo định nghĩa chung của OECD 2thì hoạt động R&D là hoạt động sáng tạo được thực hiện một cách hệ thống để tăng cường vốn tri thức, bao gồm tri thức về con người, văn hoá, xã hội và sử dụng các nguồn vốn tri thức này để tìm ra các ứng dụng mới.

Các nghiên cứu của Cohen 3và Griffith 4đã chỉ ra rằng, ngoài việc giúp doanh nghiệp tạo ra tri thức mới, hoạt động R&D ở doanh nghiệp còn đóng vai trò rất quan trọng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng năng lực để tiếp thu, học hỏi tri thức công nghệ sẵn có từ bên ngoài. Điều này đặc biệt quan trọng đối với trường hợp doanh nghiệp muốn tiếp thu các dạng tri thức ẩn 5- dạng tri thức về công nghệ không dễ nắm bắt. Hình thức xây dựng năng lực tiếp thu tri thức này được gọi là học hỏi qua nghiên cứu.

Trong quá trình học hỏi qua nghiên cứu, phương pháp quan trọng thường được các doanh nghiệp đi sau áp dụng là kỹ thuật phân tích ngược 6. Kỹ thuật phân tích ngược là nỗ lực thử sản xuất sản phẩm giống với sản phẩm đang có trên thị trường nhưng không có đầu tư trực tiếp hoặc chuyển giao thiết kế sản phẩm và công nghệ sản xuất từ bên ngoài. Kỹ thuật này đòi hỏi sự hiểu biết về các nguyên lý cơ bản phía trong sản phẩm cũng như kỹ năng bắt chước và mô phỏng công nghệ. Hệ quả là, việc học hỏi qua nghiên cứu có thể đưa đến việc nhận dạng và hiểu rõ các yếu tố thiết kế sản phẩm và công nghệ sản xuất mới. Các kỹ năng thu nhận được thông qua kỹ thuật phân tích ngược cũng tương tự như các kỹ năng trong hoạt động R&D, có thể áp dụng cho hoạt động R&D. Chính vì vậy, một khi đã thực hiện thành công kỹ thuật phân tích ngược, năng lực nghiên cứu và tiếp thu công nghệ của doanh nghiệp sẽ tăng lên rất nhiều.

Theo kinh nghiệm của Hàn Quốc, những kỹ năng thu được trong quá trình học hỏi qua nghiên cứu thông qua kỹ thuật phân tích ngược trong những năm 60-70, khi ở giai đoạn tiếp thu công nghệ nước ngoài là chủ yếu, đã giúp các doanh nghiệp Hàn Quốc nhanh chóng nâng cao năng lực tiếp thu công nghệ và tạo tiền đề cho nhiều đổi mới đột phá sau này. Trên cơ sở nghiên cứu quá trình học hỏi công nghệ của các tập đoàn kinh tế lớn (chaebol) đã tạo ra những kỳ tích xứ Hàn trong giai đoạn rượt đuổi các nước tiên tiến như: Huyndai, Posco, LG, Samsung. Giáo sư Kim Linsu 7đã chỉ rõ con đường phát triển công nghệ của các doanh nghiệp ở Hàn Quốc khác hẳn với con đường phát triển công nghệ của các doanh nghiệp ở các nước phát triển.

Học hỏi qua nghiên cứu cũng là cách làm phổ biến được các doanh nghiệp Đài Loan, Nhật Bản và Mỹ áp dụng trong giai đoạn công nghiệp hoá đất nước. Người Nhật đã gọi các nghiên cứu tiến hành trong quá trình thực hiện kỹ thuật phân tích ngược là các nghiên cứu thích nghi - adaptive R&D 8.

Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tạo ra tri thức trong phạm vi doanh nghiệp bao gồm: Quy mô đầu tư cho hoạt động R&D, hiệu quả của hoạt động R&D, trình độ nguồn nhân lực, cơ cấu tổ chức và cơ chế khuyến khích hoạt động nghiên cứu đổi mới ở doanh nghiệp.

2) Quá trình sử dụng tri thức ở doanh nghiệp

Với các tri thức được tích luỹ, doanh nghiệp sẽ lựa chọn hình thức và mức độ áp dụng tri thức vào quá trình sản xuất kinh doanhnhằm tạo ra giá trị cho mình. Quá trình này được gọi là quá trình sử dụng tri thức. Giá trị do tri thức mang lại được thể hiện thông qua kết quả thương mại hoá sản phẩm và dịch vụ mới (đổi mớisản phẩm) hay do việc tiết kiệm chi phí, nâng cao chất lượng và doanh số bán hàng đối với các sản phẩm đang tồn tại (đổi mới quy trình) khi áp dụng các tri thức trong các quy trình công nghệ sảnxuất. Trong quá trình sử dụng tri thức, doanh nghiệp cũng cần có thêm một số năng lực khác như hệ thống quản lý, kỹ năng tiếp thị...

Từ những diễn giải trên đây, có thể đưa ra mô hình tích luỹ và sử dụng tri thức ở doanh nghiệp (hình 2).

Mô hình tích luỹ và sử dụng tri thức ở hình 2 cung cấp cho chúng ta một công cụ phân tích sâu hơn về quá trình tích luỹ và sử dụng tri thức và tạo ra các thước đo cần thiết để phản ánh dòng tri thức ở quy mô doanh nghiệp. Tuy nhiên cũng cần nhấn mạnh rằng, quá trình tích luỹ và sử dụng tri thức ở doanh nghiệp không chỉ là tuyến tính mà luôn là quá trình đan xen, xảy ra liên tục. Một mặt, quá trình tích luỹ tri thức sẽ tạo tiền đề cần thiết cho quá trình sử dụng tri thức. Mặt khác, bản thân việc sử dụng tri thức cũng tạo điều kiện làm tăng khả năng tiếp thu và sáng tạo ra tri thức mới ở doanh nghiệp. Các trao đổi về đặc tính tích luỹ của tri thức trong phần tiếp theo sẽ giúp làm sáng tỏ điều này.

II. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc đo lường tri thức KH&CN ở doanh nghiệp

Trong những bài đã đăng ở các số trước, chúng ta đã nhận diện rõ bản chất công ích (xét từ góc độ tiêu dùng) xuất phát từ các đặc tính không tranh giành và không loại trừcủa tri thức KH&CN. Ngoài việc tạo ra sự thất bại thị trường, hai đặc tính này cũng có ảnh hưởng rất lớn đến việc đo lường tác động của tri thức KH&CN đối với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

Song song với đặc tính không tranh giành và không loại trừ, tri thức KH&CN còn sở hữu thêm những đặc tính mà sự hiện diện của chúng đã góp phần làm phức tạp thêm sự vận hành của cơ chế thị trường, dẫn đến các rủi ro trong việc đầu tư tạo ra tri thức KH&CN ở doanh nghiệp. Các đặc tính này bao gồm: Sự phụ thuộc của tri thức vào lượng tri thức sẵn có được tích luỹtrong quá khứ, tính không chắc chắckhi dự tính kết quả và tính trễ theo thời giankhi áp dụng trong thực tiễn.

1) Tính không tranh giành

Từ góc độ kinh tế, tính không tranh giành là quan trọng nhất bởi nó quyết định đến việc tăng lợi ích thu được theo quy mô cũng như tăng khả năng lan toả của tri thức. Chẳng hạn, có thể nêu ra ví dụ về việc thiết kế một bộ chip vi xử lý. Một khi doanh nghiệp muốn sản xuất ra một lượng Q1chip A, doanh nghiệp đó phải bỏ ra chi phí Cxđể nắm được thiết kế x, và cần tiêu tốn một lượng vốn và lao động tương ứng là K1L1. Sau đó, khi muốn tăng sản lượng chip Alên Qthoặc giảm sản lượng xuống Qg, doanh nghiệp chỉ cần bỏ ra một lượng vốn và lao động tương ứng là Kt, Lthoặc Kg, Lgmà không cần có chi phí thiết kế bổ sung nữa. Dễ dàng nhận thấy rằng, lợi ích doanh nghiệp thu được sẽ tăng lên khi quy mô sản xuất tăng lên và ngược lại chi phí trung bình cho sản xuất sẽ giảm đi. Thêm vào đó, sáng chế về thiết kế xcho 1 loại chip Acũng có thể được ứng dụng để sản xuất ở 1, 10 hay 100 doanh nghiệp khác mà việc sản xuất ở các doanh nghiệp này không đòi hỏi phải “sáng chế lại” thiết kế loại chip đó.

Xét về khía cạnh đo lường, khả năng chia sẻ sáng chế về thiết kế chip mà không phải trả thêm tiền (chi phí cận biên bằng 0) khi tăng số lượng hay quy mô sản xuất, xuất phát từ tính chất không tranh giành của tri thức, đã làm cho việc đo lường hiệu quả hay mức độ ảnh hưởng của tri thức đến hiệu quả sản xuất gặp rất nhiều khó khăn với tính co giãn của nó. Đương nhiên, như phần trên đã mô tả, cũng cần lưu ý rằng, để có đủ năng lực tiếp thu, các doanh nghiệp khác tiếp nhận thiết kế x cũng cần phải có nguồn vốn con người nhất định (chẳng hạn các nhà nghiên cứu qua đào tạo để có thể hiểu và sử dụng thiết kế được chuyển giao) và các doanh nghiệp này phải có chi phí bổ sung.

2) Tính không loại trừ

Tính không loại trừ có nghĩa là tính không thể ngăn ngừa, hay nói một cách thực tế hơn là phải rất tốn kém mới ngăn ngừa được người khác tiếp cận và sử dụng hàng hoá một khi đã tạo ra nó.

Nhiều nhà kinh tế nghiên cứu về tri thức không đồng tình với việc coi tất cả tri thức đều có tính không thể loại trừ giống nhau và coi tri thức là hàng hoá công ích không thuần tuý. Các phân tích ở bài trước cũng đã gợi ý cho chúng ta thấy rằng, tính không loại trừ của tri thức KH&CN không phải là một giá trị đơn nhất mà là một dải giá trị phản ánh mức độ loại trừ xét về khía cạnh sử dụng.

Tính không loại trừ của tri thức thay đổi phụ thuộc vào bản chất của từng loại tri thức cụ thể. Chẳng hạn, tri thức là kết quả nghiên cứu cơ bản sẽ có mức độ loại trừ nhỏ (hay không loại trừ lớn). Do đó, doanh nghiệp/cá nhân tạo ra tri thức không thể nắm giữ hết các lợi ích mà tri thức có thể tạo ra và những doanh nghiệp/cá nhân khác trong xã hội có thể hưởng lợi dưới tác động của hiệu ứng lan toả. Ngược lại, các tri thức là kết quả của các sáng chế được bảo hộ sở hữu trí tuệ dưới dạng bằng độc quyền sáng chế hay dưới dạng bí mật kinh doanh có mức độ loại trừ lớn (hay không loại trừ nhỏ), thì doanh nghiệp/cá nhân tạo ra tri thức có thể nắm giữ phần lớn các lợi ích do tri thức tạo ra và xã hội sẽ được hưởng lợi ít hơn từ các tri thức này.

Do vậy, không phải lúc nào và bất cứ loại tri thức nào cũng tạo ra các vấn đề như nhau trong thị trường. Ngoài ra, cũng phải kể đến một số yếu tố ảnh hưởng đến tính không loại trừ của tri thức như: Khả năng quan sát được hay tính ẩn/hiện của tri thức (ví dụ như quy trình chế tạo sản phẩm có thể khó quan sát hay dễ loại trừ hơn là một bản vẽ thiết kế); môi trường pháp luật điều chỉnh; trạng thái công nghệ; năng lực sáng tạo của người tạo ra tri thức và năng lực tiếp thu của người định bắt chước tri thức...

Xét về khía cạnh đo lường, tính chất không loại trừ ở các mức độ khác nhau cũng làm cho việc quan sát và đo đạc đầy đủ ảnh hưởng của tri thức gặp nhiều khó khăn hơn.

3) Tính tích luỹ của tri thức

Qua cuộc sống hàng ngày, có thể dễ dàng nhận thấy rằng, tri thức không chỉ là đầu vào của quá trình sản xuất ra các sản phẩm vật chất (ví dụ như thuốc men, thực phẩm, phần mềm...) mà còn có thể được sử dụng nhiều lần với tư cách là đầu vào của quá trình sản xuất cũng như nền tảng cho quá trình tạo ra các tri thức mới tiếp theo.

Đặc điểm quan trọng này của tri thức dẫn đến sự phụ thuộc của quá trình tạo ra tri thức mới vào chính lượng tri thức sẵn có trong xã hội và đã được doanh nghiệp tích luỹ trong quá khứ (chẳng hạn phụ thuộc vào các cơ sở dữ liệu, phương pháp nghiên cứu đã có sẵn...). Sự phụ thuộc này đã tạo ra tính chất tích luỹ và khả năng tái tổ hợp để hình thành tri thức mới trên nền các tri thức sẵn có. Sinh thời, Isaac Newton đã có câu nói nổi tiếng: “Nếu tôi có thể nhìn xa thì đó là bởi tôi đang đứng trên vai những người khổng lồ” 9.

Có thể dẫn ra rất nhiều ví dụ chứng minh cho tính tích luỹ của tri thức trong cuộc sống hàng ngày. Một dẫn chứng mang tính kinh điển là các ví dụ về ứng dụng của masers 10và lasers 11. Maser và laser có cơ chế hoạt động giống nhau, chỉ khác là maser hoạt động với tần số photon ở vùng vi sóng, còn laser hoạt động trong phổ cực tím, ánh sáng hay hồng ngoại. Đây là cơ chế tạo ra sóng điện từ và được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực: Thông tin - truyền thông, quốc phòng, y tế. Nguyên lý cơ bản dẫn đến sự ra đời của maser và laser chính là khái niệm phát xạ kích thích, được Albert Einstein đưa ra năm 1917. Khái niệm này được bắt nguồn từ những hiện tượng gần gũi trong thế giới vật chất và bức xạ, đó là hấp thụ và phát xạ tức thời.

Những công bố đầu tiên về maser trên phổ sóng vi ba xuất hiện vào năm 1954, gồm những kết quả thực nghiệm vào cùng một thời điểm, nhưng độc lập do các nhóm nghiên cứu của Charles Townes (Đại học Columbia, Mỹ) và của Basov cùng với Prochorov (Viện Nghiên cứu Lebedev, Nga) 12.

Laser là làn sóng thứ 2 về việc ứng dụng nguyên lý phát xạ kích thích và được Towns và Schawlow 13(Phòng thí nghiệm Bell, Mỹ) công bố năm 1958. Sáng chế này được cấp bằng độc quyền vào năm 1960.

ích lợi của laser đối với các ứng dụng trong khoa học, công nghiệp, kinh doanh nằm ở tính đồng pha, đồng màu và khả năng đạt được cường độ sáng rất cao, cho phép nó hội tụ tại một điểm có kích thước nhỏ, chỉ rộng cỡ vài nanomét. Tính chất này cho phép laser có thể lưu trữ vài gigabyte thông tin trên các rãnh của DVD hay tập trung cường độ sáng cao dùng trong kỹ thuật cắt bằng laser. Nhờ đó, laser được cho là một trong những sáng chế có ảnh hưởng nhất trong thế kỷ XX và đã trở nên phổ biến với hàng nghìn tiện ích khác nhau và được ứng dụng trên mọi lĩnh vực của xã hội hiện đại như: Phẫu thuật mắt, hướng dẫn phương tiện trong tàu không gian, trong các phản ứng hợp nhất hạt nhân.

Như vậy, quá trình tích luỹ tri thức từ ý tưởng ban đầu của Einstein đến phát hiện ra maser rồi laser và các ứng dụng phổ cập trong thương mại sau này cũng khoảng 50 năm.

Đặc tính tích luỹ này một mặt giúp hình thành nên một kênh mới, hay lĩnh vực ứng dụng mới, qua đó, tri thức mới có thể mang lại lợi ích cho xã hội và tổng lợi ích nói chung có thể lớn hơn, kéo dài hơn và phân bố rộng khắp trong nền kinh tế. Mặt khác, nó cũng làm tăng thêm nguy cơ về việc đầu tư dưới ngưỡng vào việc tạo ra tri thức do khó có thể xác định được hết số lượng người hưởng lợi từ tri thức để bù đắp các chi phí đã bỏ ra.

Từ đây, có thể thấy trước được sự khó khăn khi muốn dự đoán trước lợi ích do tri thức mang lại và việc này cũng đồng nghĩa với sự gia tăng của các yếu tố không dự đoán được ở giai đoạn sử dụng tri thức.

4) Tính rủi ro, không chắc chắn

Cả hai quá trình: Tạo ra tri thức và truyền bá tri thức đều có độ rủi ro cao và tính không chắc chắn về kết quả. Khi tham gia quátrình tạo ra tri thức, doanh nghiệp không nắm được chính xác những thứ sẽ được tạo ra: Làm thế nào để có được các tri thức cần thiết và liệu các tri thức thu được có giúp giải quyết hết các vấn đề kỹthuật tương ứng để đáp ứng nhu cầu đã đặt ra hay không. Thậm chí, doanh nghiệp không thể chắc chắn là nó có thể thành công hay không. Tương tự, về phía người sử dụng tri thức, cũng không hiểu hết thứmà họ phải bỏ tiền ra để mua trước khi mang về sử dụng. Do vậy, đầu tư vào việc tạo ra tri thức mang tính rủi ro khá cao.

Cần phải nhấn mạnh rằng, sự hiện diện của tính không chắc chắn không đồng nghĩa với thất bại thị trường, bởi thị trường có thể có các cách thức hay cơ chế hợp đồng khác nhau để ứng xử với việc quản lý rủi ro. Tuy nhiên, các cơ chế này khó có thể hoạt động hoàn hảo và có thể phải chịu thua các rủi ro về đạo đức và văn hoá làm khoa học, một vấn đề thường được đề cập gần đây. Chẳng hạn, sự bảo hiểm rủi ro khi việc thực hiện dự án nghiên cứu không thành công có thể làm cho nhà nghiên cứu ỷ lại và nó sẽ có tác dụng ngược khi muốn khuyến khích nhà nghiên cứu cố gắng để đi đến thành công.

Điều này được coi là vấn đề khá nổi cộm trong trường hợp nghiên cứu để tạo ra hàng hoá là tri thức mới so với các loại hàng hoá thông thường khác bởi chúng ta rất khó đánh giá hết các rủi ro, hay đo đạc các thành quả nghiên cứu cũng như do sự bất đối xứng về thông tin giữa nhà nghiên cứu và nhà quản lý. ở hình 3, Tiến sỹ Tassey 14, Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ Quốc gia Hoa Kỳ sẽ giới thiệu cho chúng ta thấy mức độ rủi ro và không chắc chắn về kết quả trong quá trình từ nghiên cứu đến sản xuất kinh doanh.

Điều này cũng đồng nghĩa với việc khó tính toán được hết các chi phí phát sinh để khắc phục các rủi ro mà chúng ta không dự đoán được.

5) Tính trễ theo thời gian

Từ thời điểm bắt đầu tiến hành nghiên cứu đến khi tạo ra các tri thức có ích và sau đó là sử dụng tri thức được tạo ra trong cuộc sống thường là một khoảng thời gian không ngắn. Đây chính là tính trễ theo thời gian trong hoạt động tạo ra và sử dụng tri thức. Tính trễ này có thể góp phần làm trầm trọng thêm các vấn đề đã nêu ở trên.

Chẳng hạn, khoảng thời gian từ khi bắt đầu tiến hành nghiên cứu và khi tạo ra các tri thức có ích nếu quá dài thì có thể làm tăng thêm độ rủi ro và tính bất định trong khi quyết định đầu tư vào việc tạo ra tri thức. Ngoài ra, một thực tế là khoảng thời gian giữa việc tạo ra tri thức nền tảng và thời gian có thể ứng dụng cụ thể các tri thức mới này trong thực tiễn có thể kéo dài cả chục năm cũng làm tăng thêm sự khó khăn trong việc xác định chi phí và thu hồi chi phí từ những người hưởng lợi.

Viện Nghiên cứu RTI (Research Triangle Institute), Hoa Kỳ đã sử dụng biểu đồ trong hình 4 để mô tả về tính trễ giữa chi phí và lợi ích khi tính toán hiệu quả đầu tư cho chương trình công nghệ tiên tiến ATP của Hoa Kỳ 15.

Như vậy,tính không tranh giành và tính không thể loại trừ (ở các mức độ khác nhau) là đặc tính quan trọng nhất của tri thức (xét từ góc độ tiêu dùng) trong nền kinh tế thị trường. Hai đặc tính này đã làm nảy sinh các vấn đề về hiệu quả và ước lượng hiệu quả của việc tích luỹ và sử dụng tri thức trong các hoạt động kinh tế. Ngoài ra, các đặc tính tích luỹ, rủi ro và tính trễ của tri thức trong hoạt động đổi mới của doanh nghiệp với những ảnh hưởng không quan sát được của các yếu tố đầu vào và đầu ra cũng làm tăng thêm các trở ngại đối với nỗ lực tìm kiếm các thước đo trực tiếp và toàn diện để đo lường dòng tri thức ở doanh nghiệp và trong nền kinh tế.

Với các đặc tính trên, trong nhiều trường hợp, rất khó có thể quan sát được đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng đến đầu vào, đầu ra của quá trình tích luỹ và sử dụng tri thức. Sự gia tăng của các yếu tố không quan sát hay dự đoán được sẽ làm tăng thêm các khó khăn khi chúng ta muốn đo lường chính xác các chi phí để tạo ra tri thức cũng như các chi phí cần thiết trong quá trình sử dụng tri thức và tính toán những lợi ích mà tri thức có thể mang lại.

Giản đồ (hình 5) mô hình hoá quá trình tích luỹ và sử dụng tri thức ở doanh nghiệp với các yếu tố ảnh hưởng có thể quan sát được và không thể quan sát được. Trong giản đồ, hình tròn đại diện cho các biến số có thể quan sát được, còn hình hộp đại diện cho các biến số không thể quan sát được.

Các biến số quan sát được trong các quá trình tích luỹ và sử dụng tri thức ở doanh nghiệp bao gồm: Các biến số ở đầu vào (cơ sở dữ liệu về nhân lực KH&CN, chi phí cho hoạt động nghiên cứu...); các biến số ở đầu ra (số bằng độc quyền sáng chế, số bài báo được công bố...); các biến số về thành quả (mẫu sản phẩm, mẫu thiết kế, quy trình công nghệ...); các biến số về tác động hay hiệu quả (lợi nhuận, doanh thu...).

Từ giản đồ trên cũng có thể thấy, mặc dù muốn quan sát tri thức một cách trực tiếp, nhưng chúng ta không làm được việc này. Có nhiều biến số và ảnh hưởng không quan sát được nằm xen giữa các biến số có thể quan sát được trong cả chuỗi đầu vào, đầu ra, thành quả, tác động của tri thức đối với hoạt động của doanh nghiệp. Chẳng hạn, không phải tất cả các hoạt động R&D có chi phí như nhau và tạo ra các sáng chế có giá trị như nhau; tiếp đến, không phải mọi sáng chế đều được cấp bằng độc quyền hay tạo ra các bí mật kinh doanh; và mức độ ứng dụng các sáng chế trong sản xuất kinh doanh cũng rất khác nhau...

III. Thay lời kết

Những phân tích trên có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi vì, sự có mặt của các biến số đầu vào và đầu ra dưới dạng không thể quan sát được làm cho khả năng đo lường trực tiếp toàn bộ các yếu tố đầu vào và đầu ra của cả quá trình tiếp thu, sáng tạo và sử dụng tri thức trở nên bất khả thi. Trên thực tế, các phép đo khác nhau với những thước đo khác nhau có thể chỉ phù hợp với các mục đích khác nhau.

Do khó có thể tạo ra thước đo chính xác, nên chúng ta khó có thể thiết lập sự cân bằng và tạo ra sự khuyến khích tối ưu giữa 2 công đoạn: Tạo ra tri thức (tiêu tốn nguồn lực) và phổ biến, sử dụng tri thức (tạo ra lợi ích). Bài toán thực tế luôn được đặt ra là làm sao dung hoà và giải quyết được các khó khăn nảy sinh trong việc tạo ra cơ chế khuyến khích tối ưu giữa 2 công đoạn trên.

Trong công trình nghiên cứu Geography and Trade, Paul Krugman 16cũng lưu ý rằng, tri thức là dòng chảy vô hình, không để lại dấu vết để chúng ta có thể đo lường và theo dõi, và vì thế cũng không thể ngăn cản được các nhà lý luận tìm nhiều cách để theo dõi và đo dòng chảy của tri thức theo ý mình.

Vì lẽ đó, cho đến nay đã có rất nhiều tính toán dựa trên thực nghiệm để ghi nhận một cách gián tiếp dòng chảy của tri thức. Phần lớn các tính toán này đều tập trung vào việc đo lường đầu vào của đổi mới, phân tích để tìm kiếm mối tương quan giữa các thông số này với đầu ra hay tác động của đổi mới.

Tóm lại,việc nghiên cứu và nhận dạng rõ quá trình tích luỹ và sử dụng tri thức ở doanh nghiệp giúp chúng ta có cách nhìn xuyên suốt vào quá trình dẫn đến hoạt động đổi mới trong nền kinh tế. Hiểu biết về cách thức tích luỹ, sử dụng tri thức và các yếu tố ảnh hưởng đến cơ chế tích luỹ và sử dụng tri thức của doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn trong quản lý nhà nước khi cần lựa chọn phương thức xây dựng và nâng cao năng lực tiếp thu công nghệ của nền kinh tế. Điều này giúp chúng ta nhận thức được rõ con đường nào (đào tạo, chuyển giao công nghệ hay tổ chức hoạt động R&D) và mức độ sử dụng các con đường ra sao sẽ giúp ích tốt nhất cho doanh nghiệp nâng cao năng lực công nghệ của mình.

Hiểu biết về các đặc tính của tri thức và ảnh hưởng của chúng đến sự bất khả thi trong việc đo lường trực tiếp các biến số đầu vào, đầu ra của quá trình tích luỹ và sử dụng tri thức trong hoạt động đổi mới của doanh nghiệp sẽ giúp chúng ta dễ chia sẻ các khó khăn trong việc xây dựng các thước đo giá trị và chấp nhận sự tương đối khi tính toán ảnh hưởng hay hiệu quả của tri thức đối với nền kinh tế.

_____________________________________

Chú thích và tài liệu tham khảo

1Dominique Forray: Giáo sư Đại học Bách khoa Laussane (EPFL), Pháp. Chủ tịch Hội chính sách sở hữu trí tuệ châu âu năm 2009; Chuyên gia nổi tiếng về tri thức phục vụ đổi mới của EU. Đã từng là Giám đốc nghiên cứu của CNRS và Hiệu trưởng Trường Quản lý công nghệ của EPFL. Tác giả cuốn sách The economics of knowledge xuất bản lần đầu năm 2000 bằng tiếng Pháp và được nhà xuất bản MIT tái bản năm 2004 bằng tiếng Anh.

2Tài liệu hướng dẫn Frascati 2002, Nxb Lao động, Hà Nội, 2004, trang 23.

3Cohen, L. và Levinthal,D.: Innovation and learning: The two faces of R&D. Economics Journal, September 1989.

4Rachel Griffith, Mapping the Two Faces of R&D: Productivity Growth in a Panel of OECD Industries. Institute for Fiscal Studies (IFF). Stephen Redding, London School of Economics and IIFF. John Van Reenen, Universtity College London and IFF, August 2001.

5Tri thức ẩn là những tri thức có các đặc tính sau: Không nhìn thấy được và khó thể hiện một cách khách quan; được sở hữu trong con người và khó chia sẻ với người khác; tồn tại ở dạng kinh nghiệm cá nhân, trực giác, cảm hứng, cảm giác và khó chuyển giao thông qua quá trình giáo dục đơn thuần.

6Kỹ thuật phân tích ngược - đôi khi được gọi là giải mã - (tiếng Anh là reverse engineering)là quá trình tìm ra các nguyên lý kỹ thuật của một phần mềm ứng dụng hay thiết bị cơ khí thông qua việc phân tích cấu trúc, chức năng và hoạt động của nó. Trong quá trình này, người ta thường phải tháo dỡ đối tượng (ví dụ: Một thiết bị cơ khí, một phần mềm) thành từng phần để phân tích chi tiết hoạt động của nó. Thông thường, kỹ thuật phân tích ngược được sử dụng với mục đích tạo ra một thiết bị hoặc phần mềm mới, hoạt động giống hệt nhưng không sao chép bất cứ thứ gì từ đối tượng nguyên bản.en.wikipedia.org/wiki/Reverse_engineering.

7Linsu Kim: Imitation to innovation, Harvard Business School press, 1997.

8Toshihiko Mukoyama. Innovation, imitation, and growth with cumulative technology. Department of Economics, Universityof Rochester, Rochester, NY 14627, USA,March 26, 2002.

9http://www.quotationspage.com/quotes/Isaac_Newton/. If I have seen further it is by standing on the shoulders of giants. Isaac Newton,Letter to Robert Hooke, February 5, 1675.

10Maser là tên viết tắt của cụm từ Microwave Amplification by Stimulation Emission of Radiation, có nghĩa là khuếch đại sóng vi ba bằng phát xạ kích thích.

11Laser là tên viết tắt của cụm từ Light Amplification by Stimulated Emission of Radiation,có nghĩa là khuếch đại ánh sáng bằng phát xạ kích thích.

12Cả ba nhà khoa học này đều nhận Giải thưởng Nobel về Vật lý năm 1964.

13http://en.wikipedia.org/wiki/Laser.

14Nguồn: Gregory Tassey. Underinvestment in Public Good Technologies. Journal of Technology Transfer, 30 1/2, 89-113, 2005 Springer Science + Business Media, Inc. Manufactured in The Netherlands .

15Nguồn:Research Triangle Institute. Center for Economics Research. Research Triangle Park, NC 27709. RTI Project Number 6715-01 FR. NIST GCR 97-737.

16Paul Robin Krugman (1953), nhà kinh tế học người Hoa Kỳ, giáo sư Đại học Princeton. ông đoạt Giải Nobel kinh tế năm 2008. Chuyên ngành chính của ông là kinh tế học vĩ mô quốc tế. ông là một đại biểu của trường phái kinh tế học Keynes mới.

- Dominique Forray:Economics of knowledge.© 2004 Massachusetts Institute of Technology. Rev. and enlarged translation of L’économie de la connaissance, â Editions La DECOUVERTE, Paris , 2000.

- Nic Blakeley, Geoff Lewis and Duncan Mills.The Economics of Knowledge: What Makes Ideas Special for Economic Growth? New Zealand Treasury, Policy Perspectives Paper 05/05, November 2005.

- The Process of Knowledge Creation in Organizations.Christine W. Soo, University of Technology, Sydney, Australia, David F. Midgley, INSEAD, FRANCE, Timothy M. Devinney, University of New South Wales, Sydney AUSTRALIA, March 2002.

- Cohen,L. và Levinthal,D. “Innovation and learning: The two faces of R&D” Economics Journal . September 1989.

- Mapping the Two Faces of R&D: Productivity Growth in a Panel of OECD Industries. Rachel Griffith, Institute for Fiscal Studies (IFF); Stephen Redding, London School of Economics and IIFF. John Van Reenen, Universtity College London and IFF, August 2001.

- Linsu Kim, Imitation to innovation, Harvard Business School press, 1997.

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.
Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.
Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.