Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 31/05/2013 23:06 (GMT+7)

Mô hình nuôi cá bống bớp trong ao nước lợ tại thành phố Vinh

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Ở Việt Nam, cá bống bớp được nuôi khá phổ biến trong các đầm ao nước lợ ở các tỉnh ven biển miền Bắc như Quảng Ninh, Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình… và đã trở thành đối tượng để phát triển kinh tế của người nuôi trồng thủy sản ở những vùng này. Đây là đối tượng hải đặc sản có giá trị dinh dưỡng cao, thịt thơm ngon rất được thị trường trong, ngoài nước ưa chuộng. Đây là loài cá có thịt lành, bổ, giá tiêu thụ dao động từ 220.000 - 300.000 đồng/kg. Loại cá này không chỉ được tiêu thụ mạnh trong nước mà còn được xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, Hồng Kông và nhiều nước Châu Á khác nên có thể trở thành đối tượng nuôi có triển vọng.

Hưng Hòa là vùng có truyền thống về nuôi trồng thủy sản của thành phố Vinh - Nghệ An, đặc biệt là nuôi tôm. Nhưng tôm là đối tượng nuôi cần vốn đầu tư lớn, lại dễ gặp rủi ro, cùng với tình hình dịch bệnh xảy ra thường xuyên trong những năm gần đây đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế cũng như tâm lý của các hộ nuôi trong vùng. Tìm ra đối tượng nuôi phù hợp, có giá trị kinh tế cao để thay thế là mối quan tâm của người dân. Dự án “Ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ xây dựng mô hình nuôi cá bống bớp (Bostrichthys sinnensis Lacepede, 1801) trong ao nước lợ tại Thành phố Vinh” được triển khai thực hiện nhằm thăm dò khả năng thích nghi và phát triển của đối tượng nuôi này trong điều kiện sinh thái vùng nuôi thành phố Vinh. Mục tiêu của dự án là xây dựng thành công mô hình nuôi cá bống bớp thương phẩm trong ao nước lợ đạt năng suất 10 tấn/ha, góp phần đa dạng hóa loài nuôi, tăng hiệu quả kinh tế trên đơn vị diện tích.

II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN

1. Kết quả khảo sát, lựa chọn địa điểm thực hiện dự án

Tiêu chí lựa chọn địa điểm nuôi: Ao có độ sâu 1,5m, có cống cấp và tiêu nước riêng biệt; có chất đáy đất thịt, bùn pha cát; độ mặn dao động từ 5-25‰; nguồn nước chủ động; có hệ thống giao thông, điện lưới thuận lợi, đảm bảo an ninh.

Từ tiêu chí trên, sau khi khảo sát thực tế tại xã Hưng Hòa - thành phố Vinh Vinh, đã lựa chọn được 2 hộ dân tham gia thực hiện dự án, đó là: hộ ông Nguyễn Văn Tuấn và hộ ông Lưu Văn Hồng ở xóm Phong Yên với diện tích ao nuôi của mỗi hộ là 2.500m2.

2. Kết quả tham quan học tập kinh nghiệm

Phân viện Nuôi trồng thủy sản Bắc Trung Bộ đã tổ chức cho cán bộ đi tham quan học tập kinh nghiệm triển khai xây dựng mô hình nuôi cá bống bớp tại xã Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định là nơi mà nghề nuôi cá bống bớp đã được phổ biến từ trước năm 1900. Qua chuyến thực tế, cán bộ thực hiện dự án đã tìm hiểu, nắm bắt được kỹ thuật chuẩn bị, cải tạo ương và nuôi thương phẩm cá bống bớp; một số kinh nghiệm về ương nuôi cá bống bớp như: vận chuyển cá hương, cá giống, theo dõi chăm sóc, quản lý môi trường và phòng trừ dịch bệnh.

Sau chuyến tham quan học tập kinh nghiệm, Phân viện nuôi trồng Thủy sản Bắc Trung Bộ (Bên A) đã tiến hành ký hợp đồng chuyển giao công nghệ nuôi thương phẩm cá bống bớp với Trung tâm Quốc gia Giống hải sản miền Bắc (Bên B).

3. Kết quả xây dựng mô hình

3.1. Ương cá hương lên cá giống

* Đợt 1 (năm 2009): Ương cá trong giai

Kích thước giai ương 12m2 (dài 3m, rộng 4m, sâu 1,8m). Số lượng cá thả: 5.000 con, sau 1,5 tháng nuôi, cá đạt kích thước trung bình 5,5cm, thu được 3.700 con, tỷ lệ sống đạt 74%.

* Đợt 2 (năm 2010): Ương cá trong ao

Ao ương có diện tích 2.500m2, độ sâu 1,2m, pH đất 6,5, có hệ thống bờ bao chắc chắn, hệ thống cấp và thoát nước đầy đủ. Ao được cải tạo, gây màu nước và thức ăn tự nhiên theo đúng yêu cầu kỹ thuật. Số lượng cá thả: 110.000 con, mật độ 44 con/m2. Sau 1,5 tháng nuôi thu được 89.650 con, tỷ lệ sống đạt 81,5%.

Tổng lượng cá giống thu được trong cả hai đợt nuôi là 93.530 con.

Bảng 1: Tăng trưởng của cá bống bớp giai đoạn cá hương lên cá giống

Thời gian nuôi (ngày)

Đợt 1

Đợt 2

Trọng lượng TB (g)

Chiều dài TB (cm)

Trọng lượng TB (g)

Chiều dài TB (cm)

Bắt đầu

0,08 ± 0,022

2,0 ± 0,034

0,1 ± 0,027

2,3 ± 0,457

15

2,30 ± 0,367

3,1 ± 0,423

2,7 ± 0,372

3,2 ± 0,447

30

3,20 ± 0,521

4,1 ± 0,511

4,2 ± 0,490

4,5 ± 0,564

45

4,60 ± 0,672

5,5 ± 0,734

6,6 ± 0,648

7,1 ± 0,831

Kết quả sau 1,5 tháng ương nuôi cho thấy, cá ương ở đợt 1 có tỷ lệ sống và tăng trưởng thấp hơn cá ương đợt 2. Nguyên nhân là do mật độ ương trong giai (416 con/m2) dày hơn so với mật độ ương trong ao (44 con/m2). Ngoài ra, việc gây màu nước tốt giúp cho thức ăn tự nhiên trong ao phát triển (đặc biệt là copepod) làm nguồn thức ăn bổ sung cho cá tăng trưởng và đạt tỷ lệ sống cao.

3.2. Nuôi thương phẩm cá bống bớp

* Đợt 1 (Vụ nuôi năm 2009): Thả cá với số lượng 85.000 con. Cá được vận chuyển kín bằng túi nilon có bơm oxy. Thời gian vận chuyển từ Hải Phòng đến Nghệ An mất 6 tiếng. Cá được thả vào 2 ao, mỗi ao có diện tích 2.500m2, mật độ thả là 15 con/m2. Định kỳ 15 ngày/lần kiểm tra tốc độ tăng trưởng của cá bằng cách đo chiều dài và cân trọng lượng để từ đó điều chỉnh lượng thức ăn phù hợp. Tuy nhiên, sau 6 tháng nuôi, khi cá đạt kích cỡ từ 68-130g, do ao bị rò rỉ, nguồn nước cấp vào bị hạn chế nên phải tiến hành thu hoạch. Kết quả thu hoạch đạt 5.761kg cá, trong đó ao 1 thu được 2.801kg, tỷ lệ sống đạt 79%; ao 2 thu được 2.920kg, tỷ lệ sống đạt 88%. Năng suất bình quân đạt 11,52 tấn/ha.

Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng trọng lượng của cá bống bớp ở vụ nuôi năm 2009

Chỉ số

Thời gian

nuôi (tháng)

Ao 1

Ao 2

Trọng lượng trung bình (g/con)

Tăng trưởng tương đối theo ngày (g/ngày)

Trọng lượng trung bình (g/con)

Tăng trưởng tương đối theo ngày (g/ngày)

Thả giống

7,2 ± 0,88

6,9 ± 0,76

1

12,4 ± 1,34

0,17

11,9 ± 0,86

0,17

2

25,2 ± 1,72

0,43

23,3 ± 0,59

0,38

3

45,3 ± 2,55

0,67

41,1 ± 1,95

0,59

4

66,4 ± 4,36

0,7

59,9 ± 1,98

0,63

5

85,3 ± 8,53

0,63

76,1 ± 7,81

0,54

6

  98,0 ± 16,51

0,42

83,0 ± 11,25

0,23

Số liệu bảng 2 cho thấy, từ tháng nuôi thứ nhất đến tháng nuôi thứ 4, cá phát triển nhanh. Tháng thứ 5 đến tháng thứ 6, cá bắt đầu có hiện tượng giảm tốc độ tăng trưởng, do thời gian này (khoảng tháng 11 đến tháng 12 trong năm) thời tiết xuất hiện gió mùa, nhiệt độ giảm xuống thấp, cá giảm ăn.

* Đợt 2 (Vụ nuôi năm 2010): Ao được cải tạo đúng quy trình kỹ thuật, gây màu nước giống như ao nuôi vụ 1. Vụ nuôi này sử dụng con giống thu được trong ao ương. Số lượng 89.650 con, kích thước cá trung bình 7,1cm. Cá được sàng lọc và phân thành 2 loại và bố trí nuôi trong 2 ao (bảng 3).

Bảng 3: Phân loại thả cá giống theo các chỉ số

Chỉ số

Đợt 1

Đợt 2

Ao 1

Ao 2

Ao 1

Ao 2

Chiều dài trung bình (cm)

7,8 ± 0,88

8,8 ± 0,57

6,4 ± 0,57

7,7 ± 0,67

Trọng lượng trung bình (gam)

6,9 ± 0,77

7,2 ± 0,88

6,1 ± 0,65

7,0 ± 0,59

Ở vụ nuôi thứ 2, thức ăn sử dụng nuôi cá là thức ăn tươi, gồm: cá tươi, tép tươi băm nhỏ. Chế độ chăm sóc ở vụ 2 cũng giống như vụ 1.

Sau 3,5 tháng nuôi, cá đạt trọng lượng trung bình 58g/con, chiều dài đạt 16,6cm, nhưng đợt lũ lịch sử tháng 10/2010 đã làm ngập toàn bộ diện tích ao nuôi cá. Mực nước đo được tính từ đáy ao lên mặt ao là 2,5m, mặc dù chủ hộ nuôi đã dùng nhiều biện pháp phòng chống như giăng lưới quanh ao nhưng không hiệu quả. Gần như toàn bộ cá thả trong ao bị thất thoát ra ngoài, sản lượng ước đạt 4.500kg (số liệu thu được trước lũ 2 ngày).

Kết quả 2 vụ nuôi cho thấy, nên chọn thời điểm sớm trong năm để nuôi cá bống bớp nhằm hạn chế rủi ro do thiên tai (bão, lụt) cũng như tránh thời điểm nuôi vào mùa đông vì mùa này cá chậm lớn.

Tổng sản lượng thu hoạch cá bống bớp thương phẩm cả hai vụ nuôi là 10.226kg là kết quả khả quan, tương đương sản lượng cá đạt được/ha ở vùng nuôi Nghĩa Hưng - Nam Định.

4. Hiệu quả kinh tế - xã hội

4.1. Hiệu quả kinh tế

Cá bống bớp là đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao, thị trường tiêu thụ rộng. Hiện tại giá bán trung bình trên thị trường là 220.000-250.000đồng/kg. Theo tính toán, nuôi 1kg cá bống bớp thương phẩm từ cá giống (kích thước 6-8cm) đem lại lợi nhuận 55.000 đồng. Nếu chọn cá giống nuôi ở giai đoạn cá hương sẽ giảm chi phí giống từ 2.000-2.500 đồng/con, mỗi ao nuôi (diện tích 2.500m2, mật độ 15 con/m2) sẽ giảm được chi phí đầu tư từ 85-100 triệu đồng. Vì vậy, nên chọn giống cỡ nhỏ (khoảng 2cm) để nuôi lên thương phẩm nhằm giảm chi phí, tăng hiệu quả kinh tế.

4.2. Hiệu quả xã hội

Dự án được triển khai trên vùng nuôi mặn lợ (Hưng Hòa - thành phố Vinh) đã ương nuôi thành công một đối tượng nuôi có giá trị, góp phần đa dạng hóa đối tượng nuôi trồng thủy sản, giúp bà con nông dân có hướng đi thích hợp nhằm phát triển kinh tế và phục hồi vùng nuôi. Thực tế, sau khi mô hình được triển khai có kết quả, một số hộ dân vùng thực hiện dự án và các vùng lân cận như Nghi Lộc - Nghệ An và Nghi Xuân - Hà Tĩnh đã tiến hành nuôi thương phẩm cá bống bớp, cho thấy khả năng nhân rộng của mô hình này.

III. KẾT LUẬN

Dự án đã xây dựng được quy trình ương cá bống bớp từ giai đoạn cá hương lên cá giống và nuôi thương phẩm cá bống bớp trong ao nước lợ phù hợp với điều kiện sinh thái thành phố Vinh, đã sản xuất được 93.350 con cá giống, tỷ lệ sống đạt 81,5%, thu được 10.226kg cá thương phẩm, đáp ứng được mục tiêu ban đầu đề ra.

Người dân nên áp dụng quy trình kỹ thuật ương cá bống bớp từ giai đoạn cá hương lên cá giống để sử dụng làm cá giống nuôi thương phẩm nhằm giảm chi phí sản xuất và đem lại lợi nhuận cao. Thời vụ nuôi nên tiến hành từ tháng 3 đến tháng 9 trong năm để giảm thiểu rủi ro do thời tiết./.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.
Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.