Mô hình “nhóm nghiên cứu” trong phòng thí nghiệm công nghệ sinh học phân tử
Trong thời gian qua, các nhóm này đã chủ trì tổng cộng 25 đề tài khoa học công nghệ các cấp (trong đó có 1 đề tài khoa học công nghệ trọng điểm cấp nhà nước, 1 nhiệm vụ hợp tác quốc tế cấp nhà nước theo nghị định thư) với tổng kinh phí nghiên cứu là 7,5 tỷ đồng; đã công bố 93 bài báo trong đó có 14 bài trong tạp chí chuyên ngành hoặc tuyển tập hội nghị khoa học quốc tế; có một số sản phẩm nghiên cứu được ứng dụng vào thực tế. Về hợp tác quốc tế, các nhóm đã triển khai hợp tác nghiên cứu với trên 10 trường đại học và viện nghiên cứu trên thế giới với 5 chương trình hợp tác quốc tế. Thông qua các chương trình hợp tác này đã thu hút được 31 suất học bổng của đối tác để đào tạo sau đại học (12 suất thuộc chương trình tiến sĩ và 19 suất thuộc chương trình thạc sĩ).
Ngay từ bước chuẩn bị thuyết minh dự án đầu tư trang thiết bị, yếu tố “nhóm nghiên cứu” đã được xem là trọng tâm để quyết định nội dung trang thiết bị sẽ đầu tư và phương thức vận hành phòng thí nghiệm sau này. Mặc dù dự án nhằm phục vụ tất cả cán bộ của trường Đại học Khoa học tự nhiên và của Đại học Quốc gia TP.HCM, tuy nhiên vốn của dự án chỉ phục vụ cho việc đầu tư trang thiết bị nghiên cứu, không dành kinh phí cho việc vận hành phòng thí nghiệm. Do vậy, ngay từ đầu cần phải xác định cụ thể cán bộ đầu đàn nào là người có hướng nghiên cứu phù hợp với mục tiêu dự án, có nhu cầu và năng lực sử dụng trang thiết bị để tiến hành các nghiên cứu trình độ cao. Các cán bộ này sẽ hình thành các nhóm nghiên cứuđể triển khai các hướng nghiên cứu riêng của mình và là người góp phần sử dụng hiệu quả các trang thiết bị sẽ đầu tư. Đó là phương thức vận hành, khai thác hợp lý và hiệu quả phòng thí nghiệm, vốn đầu tư của dự án. Với phương thức như trên, PTN CNSHPT đã hình thành 3 nhóm nghiên cứu riêng như đã trình bày ở phần trên và hoạt động của các nhóm này chính là động lực vận hành hoạt động của phòng thí nghiệm.
Về mặt nhân sự, để tinh giản số nhân sự cơ hữu, qua đó làm giảm gánh nặng quỹ lương của phòng thí nghiệm, PTN CNSHPT đã liên kết chặt chẽ với các bộ môn của khoa sinh học. Về con người, PTN CNSHPT hầu như dựa vào các bộ môn: cả 3 trưởng nhóm nghiên cứu đều là trưởng hoặc phó 3 bộ môn nêu trên trong đó có 2 vừa là trưởng bộ môn, vừa kiêm nhiệm trưởng và phó phòng thí nghiệm; nhân sự thực hiện các hoạt động nghiên cứu, đào tạo của phòng thí nghiệm chủ yếu là các giảng viên, trợ giảng, học viên sau đại học và sinh viên của các bộ môn. Do vậy, vào bất kỳ thời điểm nào cũng có trung bình từ 50 - 60 cán bộ, sinh viên làm việc tại PTN CNSHPT,nhưng trong số này chỉ có 2 nghiên cứu viên và 1 nhân viên là nhân sự cơ hữu của phòng thí nghiệm, số còn lại là đều là nhân sự từ các bộ môn liên kết.
Hình thành các nhóm nghiên cứu là một giải pháp không thể thiếutrong việc kết hợp đào tạo với nghiên cứu khoa học ở một trường đại học. Trong một nhóm nghiên cứu, trưởng nhóm là người có vai trò quyết định đến sự thành công của nhóm nhưng thường không trực tiếp tham gia làm thí nghiệm mà chỉ giữ vai trò chỉ đạo, định hướng, xác định nhiệm vụ nghiên cứu và tìm kinh phí để đảm bảo hoạt động của nhóm mình. Sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh mới chính là lực lượng trực tiếp tiến hành thí nghiệm, thực hiện nghiên cứu.
Qua các phân tích nêu trên có thể thấy rằng nhóm nghiên cứu là một phương thức cho phép gắn kết, phối hợp, phát huy tiềm lực của nhiều đơn vị khác nhau tại một trường đại học. Đây là các yếu tố mang lại sự thành công trong hoạt động của PTN CNSHPT trong thời gian qua. ó
Nguồn: Khoa học phổ thông 17/11/2006








