Mở bể than 210 tỷ tấn: Lắng nghe phản biện
Ông Dương Hồng Phi, thành viên Hội đồng phản biện VUSTA: Mức độ tin cậy thấp
* Đánh giá trữ lượng, tài nguyên than của bể than đồng bằng sông Hồng cần xem xét lại, mức độ tin cậy còn thấp do:
- Tài liệu địa chất đánh giá quy luật phân bố các vỉa than trong hệ tầng Tiên hưng theo đường phương và hướng cắm hầu như chưa có.
- Điều kiện cổ địa lý, chế độ kiến tạo trong quá trình tạo than miền võng Hà Nội rất phức tạp. Sự biến đổi về tướng đá trầm tích phổ biến, quyết định mức độ duy trì, ổn định của các vỉa than, hình thái vỉa, chiều dày vỉa, cấu tạo vỉa.
Ví dụ, Khoái Châu trên diện tích 85km 2, từ lộ vỉa dưới lớp phủ đến 1200m có 20 vỉa than, trong đó có 5 vỉa có giá trị công nghiệp, chỉ có vỉa 3 là duy trì và tương đối ổn định, các vỉa 14, 15, 17 và vỉa 4 mức độ duy trì, ổn định kém. Tổng chiều dự trính trữ lượng, tài nguyên khoảng 15 – 16m. Hệ số chứa than công nghiệp theo chiều dày cột địa tầng khoảng 1,5% – 1,6%.
Trong khi đó, các vùng còn lại nói trên, có tổng chiều dày than để dự tính tài nguyên dao động từ 35m – 45m, hệ số chưa than 3,5% - 4,5% là quá cao.
* Do tính chất cơ lý của các đá sét kết, bộ kết, cát kết, sét than trong hệ tầng chứa than rất mềm yếu và điều kiện Địa chất thủy văn – Địa chất công trình của Hệ tầng Tiên Hương và Đệ Tứ cực kỳ phức tạp nên công nghệ khai thác phải lưu ý.
Các công nghệ khai thác khí hóa than ngầm ở Nga được tác giả nêu trong đề án chỉ đến năm 1990, từ năm 1990 còn khai thác hay đã ngừng và nếu ngừng cần nêu các lý do cụ thể. Trong thuyết minh có đề cập đến công nghệ khai thác khí hóa than ngầm ở Nga và sau này ở Trung Quốc mắc phải sai lầm như Nga.
Vậy nhưng sai lầm này đối với dự án của đề tài có khắc phục được không. Vấn đề này cần phải đề cập một cách đầy đủ trong các dự án thử nghiệm công nghệ khai thác khí hóa than ngầm.
* Việc triển khai các đề án khảo sát, thăm dò và thử nghiệm công nghệ khai thác, chế biến, sử dụng than đồng bằng sông hồng là cần thiết. Song vấn đề khai thác cần có sự chuẩn bị, tính toán kỹ lưỡng thận trọng.
Vấn đề quan tâm nhất ở đây là sự sạt lún mặt đất sau khi khai thác thay đổi địa hình địa mạo vùng đồng bằng sông Hồng, nó sẽ không xảy ra sau vài chục năm mà có thể hàng trăm năm sau. Hậu quả ấy cần được suy ngẫm.
PGS, TS. Nguyễn Phương, thành viên VUSTA: Rủi ro có thể xảy ra
Cần đề cập bức tranh tổng quát về tài nguyên than Việt Nam , hiện trạng thăm dò, khai thác, tiêu thụ. Diện tích lựa chọn nghiên cứu thử nghiệm công nghệ khai thác phải bao đảm tính đại diện cho bể than và khả năng thực khi khi triển khai nghiên cứu.
Đề án phát triển trên khu vực đông dân cư; là vựa thóc của Miền bắc. Ở đây có nhiều di tích văn hóa, di tích lịch sử, nhiều khu công nghiệp và gần thủ đô Hà Nội.
Vì vậy, vấn đề cực kỳ quan trọng của dự án là giảm thiểu ảnh hưởng đến dân sinh và xã hội, cần đặc biệt chú ý giải pháp thủ tiêu, xử lý các sự cố và biến động về môi trường có thể xảy ra ngoài dự kiến. Đặc biệt hiện tượng sụt lún nhiều khi nằm ngoài tầm kiểm soát và ngoài mong muốn của chúng ta.
Một vấn đề cần lưu ý là điều kiện địa chất thủy văn – địa chất công trình bể than đồng bằng sông Hồng là hết sức phức tạp. Mặt khác, trên đó là các khu dân cư, khu công nghiệp, là các thành phố, thị xã đông dân cư, hoàn toàn khác so với một số mỏ ở nước ngoài tác giả tham khảo trích dẫn trong đề án này.
Phó viện trưởng Viện KHCN mỏ- TS. Trương Đức Dư: Cân nhắc an ninh lương thực và an ninh năng lượng
![]() |
| Ảnh minh hoạ |
Việc khai thác khí hóa than đã được thế giới nghiên cứu từ lâu và đã có khá nhiều dự án thử nghiệm ở các nước. Song hiện nay chỉ tồn tại 1 mỏ khí hóa than tại Uzubekixtan hoạt động từ năm 1960 đến nay.
Ngay cả Trung Quốc là nước phát triển khí hóa than, nhưng tại nhiều mỏ than sâu 700m, họ vẫn thực hiện khai thác hầm lò. Như vậy phải hiểu khí hóa than là công nghệ khai thác đặc biệt mà ở mỏ đó các điều kiện cho phép khai thác hầm lò không thực hiện được hoặc kém hiệu quả.
Với phân tích trên, cho thấy việc khí hóa than ở đồng bằng sông Hồng phải được nghiên cứu chặt chẽ trên cơ sở rõ ràng về điều kiện địa chất, nhất là độ bền vững đá vách vỉa và nước trong khu mỏ. Nếu điều kiện cơ bản trên đảm bảo thì sẽ lập và triển khai dự án thử nghiệm ở quy mô nhỏ. Kết quả thử nghiệm tốt sẽ xem xét khí hóa ở quy mô lớn hơn. Đồng thời xác định mức sâu tối thiểu của vỉa than thực hiện công nghệ khí hóa than, bởi phía trên mặt mỏ là đồng ruộng và các công trình cần bảo vệ. Đó là sự cân nhắc đảm bảo giữa an ninh năng lượng và an ninh lương thực.
Bàn thêm về địa chất thủy văn:
* Mỏ Bình Minh: Tính lượng nước chảy vào mỏ chưa đảm bảo độ tin cậy bởi quan hệ thủy văn giữa sông Hồng với địa tầng khu mỏ rất chặt chẽ: báo cáo chương này tính lượng nước chảy vào mỏ là 5628m3/h, trong thuyết minh tổng thể đề án phát triển bể than đồng bằng sông Hồng ghi “Tổng lượng nước chảy vào công trình khai thác hầm lò là 16.829 m3/h”là không thống nhất.
Theo báo cáo kết quả khảo sát thăm dò năm 2003 do Công ty địa chất Mỏ lập, dự tính lượng nước chảy vào công trình khai thác mỏ hầm lò là 20.096m 3/h.
* Mỏ Tây Sa: Việc xác định lượng nước vào mỏ này cũng chưa được tính toán rõ. Báo cáo cũng chưa có nghiên cứu dự báo dịch động đất đá và sụt lún bề mặt mà đưa ngay công nghệ khai thác cơ giới hóa tổng hợp và công suất mỏ 5 triệu tấn/năm bằng 2 lò chợ cơ giới hóa. Như vậy, sự phù hợp công nghệ chưa có luận cứ; Công suất lò chợ như vậy quá lớn, sự phức tạp của địa chất than đồng bằng sông Hồng khó đạt được.
* Mỏ Tiên Dung: Do báo cáo không có phần địa chất nên không biết lượng nước chảy vào mỏ như thế nào, độ bền vững đá vách vỉa ra sao. Tuy nhiên, theo sự hiểu biết chung, than đồng bằng sông Hồng có đá vách vỉa mềm yếu và rất nhiều nước là điều kiện khó khăn để khai thác khí hóa than.









