Máy bơm nước “made in Tất Hải”
Đồng Hợp là xã đặc biệt khó khăn của huyện Quỳ Hợp, chưa có điện lưới quốc gia, lúa chủ yếu trồng trên ruộng bậc thang phân tán, nhỏ lẻ nên việc điều tiết nước rất khó khăn. Vào mùa hạn, những con suối cạn khô khiến tất cả các loại máy bơm, gầu sòng, gầu kéo đều “làm đồ chơi”; người dân chỉ biết nhìn từng cánh đồng lúa héo khô. “Tôi vốn là bộ đội, đi biền biệt cả tháng cả năm đâu biết vợ con mình ở nhà lam lũ, trồng 6 sào lúa mà chỉ thu được vẻn vẹn 3 tạ thóc/vụ. Năm 1996, khi về nghỉ chế độ, trực tiếp tham gia sản xuất cùng bà con tôi mới thấm thía nỗi khổ thiếu nước. Từ đó tôi luôn nung nấu ý định phải chế tạo cho được một loại máy bơm phù hợp với đồng đất quê mình” - ông Hải tâm sự.
Cẩm nang để ông bắt đầu thực hiện ý tưởng là một tủ sách “dành dụm” được từ khi còn là sinh viên Học viên Hậu cần, trong đó cuốn “Thuật phát minh sáng chế Angôrit” của Alsule (người Nga) và cuốn “Khoa học lao động” giới thiệu phương pháp hợp lý hoá lao động của tiến sĩ Phơridrich Taylor (người Mỹ) đã giúp ông giải các bài toán về năng suất cấp nước, lực, kết cấu máy, vật liệu,... để hình thành máy bơm nước đạp chân được ông đặt tên là Đồng Hợp. Mất đến 4 năm đập đập, phá phá, dành hết lương hưu để mua thiết bị, nguyên vật liệu, “đến nỗi bà nhà tôi phải kêu rầm lên ông chỉ biết có máy bơm” - ông cười nói. Năm 2000, chiếc máy bơm đầu tiên do ông Hải sáng tạo đã được đưa ra đồng, làm dịu đi “cơn khát” của đất và lúa trong sự vui mừng, phấn khởi của bà con. Bởi trong điều kiện không có điện lưới quốc gia, địa hình cao thấp không đều, mọi loại máy bơm đều bó tay thì sự xuất hiện của máy bơm Đồng Hợp mở ra hy vọng cho bà con, sẽ cải thiện được nhu cầu nước cho sản xuất. Máy bơm nước đạp chân Đồng Hợp có kết cấu rất đơn giản, thân máy có kết cấu gồm 4 xilanh nằm trên cùng một mặt phẳng (xilanh làm bằng sứ, chất kế dính là hỗn hợp cát, sạn, xi măng và nước), 4 xi lanh này sẽ cung cấp nước thường xuyên vào máng để dẫn ra ruộng; giá bơm nước làm bằng gỗ, trên giá gắn cọc trụ ghế ngồi; cọc treo ròng rọc và hai kè làm tăng độ vững khi đặt máy.
Và phải mất thêm 4 năm nữa ông Hải mới cho ra đời sản phẩm hoàn thiện mà ông gọi là “một tác phẩm nghệ thuật của nghề trồng lúa nước miền núi Việt Nam”. Thực chất của quá trình hoàn thiện này là bớt một số phần thừa để giảm khối lượng của máy; còn nguyên tắc hoạt động, không thay đổi. Thời gian đầu, máy bơm Đồng Hợp trông xù xì, cồng kềnh, nặng 62kg. Ông giảm bớt một số phần thừa của bêtông, rút ngắn giá đỡ của thân máy (từ 3m xuống còn 1,05m) và cần đạp (từ trên 1m xuống còn 55cm). “Bây giờ thì “hắn” gọn nhẹ lắm rồi, chỉ trên dưới 40 cân” – ông hồ hởi nói.
So với những máy bơm cùng loại, máy bơm nước đạp chân Đồng Hợp có những ưu điểm vượt trội. Công suất gấp 3 lần so với máy của Bănglađét do Viện Lúa quốc tế (IRRI) giới thiệu ở một số vùng trên địa bàn tỉnh Nghệ An, Thanh Hoá... (15m 3/giờ nhờ kết cấu 4 xilanh). Máy của Bănglađét lực tác động để bơm nước phải là người lớn, còn hệ thống đòn bẩy kép của máy bơm Đồng Hợp giảm đi 4/5 trọng lực, nghĩa là chỉ cần một đứa trẻ lên 10 cũng có thể bơm nước bình thường. Thiết kế ghế ngồi khi bơm cũng là nét đặc biệt của máy bơm Đồng Hợp, cho phép tận dụng được cơ chân, tư thế ngồi sẽ ít hao phí lực vô ích do cơ thể không tạo áp lực thường xuyên lên hai chân. Ông còn thiết kế cả giá sách cho các em học sinh ôn bài khi giúp bố mẹ bơm nước. Công suất máy bơm Đồng Hợp lớn gấp 10 lần so với máy bơm nước Trung Quốc loại 300kW/giờ, nếu áp dụng trên địa bàn miền núi như địa phương ông. Khắc phục được nhược điểm của những loại máy trên, tác phẩm của ông có thể hoạt động tốt, bất kể nguồn nước nông hay sâu, chảy hay tĩnh. Trong đợt hạn hán năm ngoái, máy bơm Đồng Hợp đã phát huy tác dụng. Khi các khe suối cạn khô, các loại gàu, guồng đều bất lực, máy bơm Đồng Hợp vẫn chạy, “cứu” được hàng trăm hecta lúa của xã. “Bây giờ bà nhà tôi không kêu tôi khùng nữa rồi, từ ngày có máy bơm bà ấy vui lắm, có hôm bà ấy vừa bơm nước vừa đọc Truyện Kiều đấy. Năng suất lúa cũng tăng, bình quân đạt 2-2,5 tạ/sào/vụ” - ông Hải Khoe.
Dù rất phù hợp với các vùng miền núi nhưng đến nay ông Hải mới chỉ sản xuất thử nghiệm 20 chiếc bán cho bà con quanh vùng do còn khó khăn trong đăng ký bản quyền sáng chế. Mong ước lớn nhất của ông là làm các thủ tục về đăng ký bản quyền nhanh chóng để sản phẩm của ông góp phần giúp bà con vùng núi, vùng sâu, vùng xa tăng năng suất cây trồng, vươn lên xoá đói giảm nghèo.
Nguồn: Kinh tế nông thôn, số42 (476), 17/10/2005