Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 16/10/2006 23:02 (GMT+7)

Máy bơm nước “made in Tất Hải”

Đồng Hợp là xã đặc biệt khó khăn của huyện Quỳ Hợp, chưa có điện lưới quốc gia, lúa chủ yếu trồng trên ruộng bậc thang phân tán, nhỏ lẻ nên việc điều tiết nước rất khó khăn. Vào mùa hạn, những con suối cạn khô khiến tất cả các loại máy bơm, gầu sòng, gầu kéo đều “làm đồ chơi”; người dân chỉ biết nhìn từng cánh đồng lúa héo khô. “Tôi vốn là bộ đội, đi biền biệt cả tháng cả năm đâu biết vợ con mình ở nhà lam lũ, trồng 6 sào lúa mà chỉ thu được vẻn vẹn 3 tạ thóc/vụ. Năm 1996, khi về nghỉ chế độ, trực tiếp tham gia sản xuất cùng bà con tôi mới thấm thía nỗi khổ thiếu nước. Từ đó tôi luôn nung nấu ý định phải chế tạo cho được một loại máy bơm phù hợp với đồng đất quê mình” - ông Hải tâm sự.

Cẩm nang để ông bắt đầu thực hiện ý tưởng là một tủ sách “dành dụm” được từ khi còn là sinh viên Học viên Hậu cần, trong đó cuốn “Thuật phát minh sáng chế Angôrit” của Alsule (người Nga) và cuốn “Khoa học lao động” giới thiệu phương pháp hợp lý hoá lao động của tiến sĩ Phơridrich Taylor (người Mỹ) đã giúp ông giải các bài toán về năng suất cấp nước, lực, kết cấu máy, vật liệu,... để hình thành máy bơm nước đạp chân được ông đặt tên là Đồng Hợp. Mất đến 4 năm đập đập, phá phá, dành hết lương hưu để mua thiết bị, nguyên vật liệu, “đến nỗi bà nhà tôi phải kêu rầm lên ông chỉ biết có máy bơm” - ông cười nói. Năm 2000, chiếc máy bơm đầu tiên do ông Hải sáng tạo đã được đưa ra đồng, làm dịu đi “cơn khát” của đất và lúa trong sự vui mừng, phấn khởi của bà con. Bởi trong điều kiện không có điện lưới quốc gia, địa hình cao thấp không đều, mọi loại máy bơm đều bó tay thì sự xuất hiện của máy bơm Đồng Hợp mở ra hy vọng cho bà con, sẽ cải thiện được nhu cầu nước cho sản xuất. Máy bơm nước đạp chân Đồng Hợp có kết cấu rất đơn giản, thân máy có kết cấu gồm 4 xilanh nằm trên cùng một mặt phẳng (xilanh làm bằng sứ, chất kế dính là hỗn hợp cát, sạn, xi măng và nước), 4 xi lanh này sẽ cung cấp nước thường xuyên vào máng để dẫn ra ruộng; giá bơm nước làm bằng gỗ, trên giá gắn cọc trụ ghế ngồi; cọc treo ròng rọc và hai kè làm tăng độ vững khi đặt máy.

Và phải mất thêm 4 năm nữa ông Hải mới cho ra đời sản phẩm hoàn thiện mà ông gọi là “một tác phẩm nghệ thuật của nghề trồng lúa nước miền núi Việt Nam”. Thực chất của quá trình hoàn thiện này là bớt một số phần thừa để giảm khối lượng của máy; còn nguyên tắc hoạt động, không thay đổi. Thời gian đầu, máy bơm Đồng Hợp trông xù xì, cồng kềnh, nặng 62kg. Ông giảm bớt một số phần thừa của bêtông, rút ngắn giá đỡ của thân máy (từ 3m xuống còn 1,05m) và cần đạp (từ trên 1m xuống còn 55cm). “Bây giờ thì “hắn” gọn nhẹ lắm rồi, chỉ trên dưới 40 cân” – ông hồ hởi nói.

So với những máy bơm cùng loại, máy bơm nước đạp chân Đồng Hợp có những ưu điểm vượt trội. Công suất gấp 3 lần so với máy của Bănglađét do Viện Lúa quốc tế (IRRI) giới thiệu ở một số vùng trên địa bàn tỉnh Nghệ An, Thanh Hoá... (15m 3/giờ nhờ kết cấu 4 xilanh). Máy của Bănglađét lực tác động để bơm nước phải là người lớn, còn hệ thống đòn bẩy kép của máy bơm Đồng Hợp giảm đi 4/5 trọng lực, nghĩa là chỉ cần một đứa trẻ lên 10 cũng có thể bơm nước bình thường. Thiết kế ghế ngồi khi bơm cũng là nét đặc biệt của máy bơm Đồng Hợp, cho phép tận dụng được cơ chân, tư thế ngồi sẽ ít hao phí lực vô ích do cơ thể không tạo áp lực thường xuyên lên hai chân. Ông còn thiết kế cả giá sách cho các em học sinh ôn bài khi giúp bố mẹ bơm nước. Công suất máy bơm Đồng Hợp lớn gấp 10 lần so với máy bơm nước Trung Quốc loại 300kW/giờ, nếu áp dụng trên địa bàn miền núi như địa phương ông. Khắc phục được nhược điểm của những loại máy trên, tác phẩm của ông có thể hoạt động tốt, bất kể nguồn nước nông hay sâu, chảy hay tĩnh. Trong đợt hạn hán năm ngoái, máy bơm Đồng Hợp đã phát huy tác dụng. Khi các khe suối cạn khô, các loại gàu, guồng đều bất lực, máy bơm Đồng Hợp vẫn chạy, “cứu” được hàng trăm hecta lúa của xã. “Bây giờ bà nhà tôi không kêu tôi khùng nữa rồi, từ ngày có máy bơm bà ấy vui lắm, có hôm bà ấy vừa bơm nước vừa đọc Truyện Kiều đấy. Năng suất lúa cũng tăng, bình quân đạt 2-2,5 tạ/sào/vụ” - ông Hải Khoe.

Dù rất phù hợp với các vùng miền núi nhưng đến nay ông Hải mới chỉ sản xuất thử nghiệm 20 chiếc bán cho bà con quanh vùng do còn khó khăn trong đăng ký bản quyền sáng chế. Mong ước lớn nhất của ông là làm các thủ tục về đăng ký bản quyền nhanh chóng để sản phẩm của ông góp phần giúp bà con vùng núi, vùng sâu, vùng xa tăng năng suất cây trồng, vươn lên xoá đói giảm nghèo.

Nguồn: Kinh tế nông thôn, số42 (476), 17/10/2005

Xem Thêm

Tôn vinh và tri ân một nghề cao quý nhất
Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 hằng năm là dịp để toàn xã hội tôn vinh và tri ân những người thầy, người cô đã tận tụy cống hiến cho sự nghiệp trồng người. Đây không chỉ là ngày lễ ý nghĩa trong ngành giáo dục mà còn mang tính nhân văn sâu sắc, gắn kết tinh thần “tôn sư trọng đạo” - truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
GS.TSKH Nguyễn Đức Cương: Khoa học phải luôn mở rộng hợp tác và học hỏi
GS.TSKH Nguyễn Đức Cương, một trong những nhà khoa học hàng đầu về hàng không - vũ trụ của Việt Nam, đã có hơn nửa thế kỷ cống hiến cho ngành khoa học kỹ thuật hàng không vũ trụ. Không chỉ là người đặt nền móng cho các sản phẩm bay tiết kiệm chi phí cho Việt Nam, ông còn là người thầy tâm huyết, truyền cảm hứng và kiến thức cho nhiều thế hệ trẻ…
An Giang: Người thắp lửa sáng tạo cho học sinh tiểu học
Đam mê đặc biệt với khoa học và sáng tạo, thầy giáo Nguyễn Văn Trung đã không ngừng nỗ lực truyền cảm hứng cho học sinh tiểu học, đồng thời hướng dẫn các em đạt được những thành tích ấn tượng ở cả cấp tỉnh lẫn cấp quốc gia.
Phú Yên: Những nữ trí thức góp phần cải thiện đời sống người dân
Trong thời kỳ hội nhập, sự phát triển của khoa học và công nghệ đóng vai trò là nền tảng thúc đẩy các ngành kinh tế - xã hội khác phát triển. Đặc biệt, trong lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH&CN) nữ trí thức không chỉ thể hiện khả năng sáng tạo, nghiên cứu mà còn góp phần tạo ra những ứng dụng thực tiễn giúp cải thiện đời sống người dân và phát triển kinh tế.
Tấm gương sáng trong nghiên cứu và bảo tồn di sản lịch sử
Ông sinh năm1948 tại Phường Hồng Hà, thị Yên Bái, là nhà khoa học tâm huyết, là tấm gương sáng về lòng kiên trì, sự đam mê nhiên cứu và cống hiến hết mình cho sử học của tỉnh Yên Bái. Những đóng góp của Nguyễn Văn Quang đối với ngành sử học đã để lại những dấu ấn sâu sắc và có ý nghĩa to lớn trong việc bảo tồn di sản lịch sử địa phương nơi có nhiều di tích lịch sử và văn hóa dân tộc vùng cao.

Tin mới

Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Vutsa thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP
Mới đây, Vusta tổ chức Hội thảo Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Liên hiệp Hội Việt Nam thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP ngày 09/7/2024 nhằm thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW về công tác trí thức. Ông Phạm Ngọc Linh – Phó chủ tịch Vusta và ông Nguyễn Quyết Chiến – Tổng Thư ký Vusta chủ trì hội thảo.
Phú Yên: Giải thể 03 tổ chức Hội thành viên
UBND tỉnh Phú Yên vừa ban hành các Quyết định số 1471, 1472, 1473/ QĐ-UBND về việc giải thể 03 tổ chức Hội là thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú gồm: Hội Kế hoạch hoá gia đình, Hội Phụ sản và Hội Y tế thôn bản. Đây là các Hội không còn hoạt động liên tục mười hai tháng theo quy định.
Cụm thi đua số 3 tổng kết công tác năm 2024
Ngày 22/11, tại thị xã Sa Pa, Hội nghị tổng kết công tác thi đua, khen thưởng năm 2024, triển khai phương hướng nghiệm vụ năm 2025 của Cụm thi đua số 3 do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Lào Cai làm cụm trưởng đã được tổ chức.
Quảng Ngãi: Tuyên truyền chủ trương của Đảng cho trí thức
Chiều ngày 19/11, Liên hiệp Hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức hội nghị thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề: “Tình hình xung đột Israel-Hamas, Hezbollah; xung đột Nga-Ukraine. Tác động và xử lý của Việt Nam”.
Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp giảm thiểu tác động của đốt mở tại Việt Nam
Mặc dù 68% số người được khảo sát có ý thức về môi trường, 80% có ý thức về sức khỏe, nhưng vẫn thể hiện sẽ tiếp tục “đốt đồng” (đốt lộ thiên/đốt mở trong nông nghiệp), với lý do chủ yếu “vì tin có tác dụng tốt, nhanh, rẻ”. Do vậy, cần có giải pháp truyền thông phù hợp để thay đổi thói quen này.