Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 28/09/2009 23:15 (GMT+7)

Mặt trận Tổ quốc đối diện với đòi hỏi mới

Đại hội lần thứ VII Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam diễn ra trong bối cảnh mới có nhiều thách thức. Cuộc sống vô cùng phong phú, có nhiều vấn đề chưa biết đến, luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển, luôn luôn đặt ra những đòi hỏi mới, cần có các quyết sách mới và các giải pháp thích hợp. Thế giới cần được nhận thức trong sự vận động, trôi chảy và luôn biến đổi. Do đó, phải chăng cần thay đổi quan niệm về cơ cấu bằng quan niệm về tiến trình.

Về thách thức mới

Thế kỷ XXI là thế kỷ của sự khai thác những tiềm năng cực lớn của bộ não. Khi mà con người bắt đầu thổi hồn vào những vật vô tri vô giác gồm những thanh nhỏ của trí tuệ, liên kết chúng lại thành một sân chơi toàn cầu và nối kết trí tuệ của họ thành một hệ thống, thì cái gì sẽ xảy ra? Đây là sự kiện lớn nhất, phức tạp nhất và kỳ lạ nhất trên trái đất. Với việc đan dệt những sợi dây trí tuệ từ kính và sóng radio, loài người bắt đầu nối kết tất cả các khu vực, tất cả các quá trình, tất cả các khái niệm thành một hệ thống khổng lồ.

Từ nền tảng mạng lưới trí tuệ phôi thai đó đã ra đời một nền tảng hợp tác mới cho nền văn minh mới. Những tiền đề mới đã xuất hiện, vì vậy, những ai chần chừ, còn tin rằng tương lai chỉ sẽ là sự tiếp tục đơn giản của quá khứ, sẽ sớm thấy mình bị hụt hẫng trước sự thay đổi. Họ sẽ bị buộc phải suy nghĩ lại: sẽ đi đến đâu và bằng cách nào đi đến đó, khi mà có lẽ đã quá muộn để tránh được điều không thể tránh khỏi.

Dân tộc ta đang đứng trước một viễn ảnh mới, những thách thức mới chưa có tiền lệ của những biến động dồn dập trên thế giới với những hợp trội bất ngờ không sao tiên đoán nổi. Dòng sông cuộc sống của đất nước ta đang xuôi về biển lớn. Ở những khúc ngoặt, váng bẩn sẽ nổi lên nhiều, song quyết định tốc độ của dòng sông vẫn là sức cuộn chảy từ bên dưới.

Chính vì thế, sức mạnh tiềm ẩn trong dân khi được khởi động, được phát huy, sẽ mở ra những hướng đột phá mới khó hình dung được trước. Lịch sử nước ta luôn cho thấy điều đó, ông cha ta luôn tìm ra những giải pháp độc đáo cho những vấn đề gặp phải như vậy.

Xin hãy chỉ nói đến 2 ví dụ trong thời đoạn hơn nửa thế kỷ vừa qua: Cách mạng Tháng Tám là một và Đổi Mới là hai, những minh chứng sống động! Có thấy rõ điều đó mới cảm nhận được đầy đủ và thật thấm thía lời căn dặn của Bác Hồ trong Di chúc khi Người nói về “Cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ tốt tươi” mà Người khẳng định rằng đây là một “ cuộc chiến đấu khổng lồ ”! Và Bác đòi hỏi: “Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”.

Sứ mệnh thiêng liêng của Mặt trận được quy định bởi đòi hỏi lớn lao đó. Chức năng cao quý của Mặt trận cũng ở cũng thể hiện tập trung ở đòi hỏi ấy. Trong phạm vi bài viết nhân khai mạc Đại hội lần thứ VII của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xin gợi lên hai điều mà Dự thảo Báo cáo Chính trị của UBTƯMT đã có nêu lên : đồng thuận xã hội và phản biện xã hội.

Về đồng thuận xã hội

Trong dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội VII của Mặt trận, khi nêu lên mục tiêu những năm sắp tới của Mặt trận có câu: “phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực, tự cường,phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội,đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước tạo thành sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc…”. Hiểu đúng nghĩa thuật ngữ [hay khái niệm] “đồng thuận” như thế nào cho đúng, và vì sao phải “phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội” thì mới có thể “tạo thành sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”?

Thuật ngữ đồng thuận gần đây được dùng nhiều, tuy nhiên trong Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh biên soạn năm 1932-1936, NXBKHXH xuất bản năm 2003, cũng như trong Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ NXBKHXH xuất bản năm 2005 đều không có mục từ “đồng thuận”. Điều này có duyên do của nó.

Trước đây, khi nước mất nhà tan, để khởi động ý chí quật khởi của các tầng lớp nhân dân đứng lên giành lại quyền độc lập và tự do, các cụ ta ở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX hay dùng những thuật ngữ “hợp quần” và “đồng tâm”. Trong “Ái quốc ca ”viết năm 1910 cụ Phan Bội Châu giục giã: “Nay ta hát một thiên ái quốc, Yêu gì hơn yêu nước nhà ta!” nhằm thiết tha gọi hồn đất nước để “Chữ đồng tâm ấy phải cho một lòng”.

Có tạo ra được sự đồng thuận xã hội thì mới đối phó được với những hiểm họa
Có tạo ra được sự đồng thuận xã hội thì mới đối phó được với những hiểm họa

Thời Đông Kinh Nghĩa Thục, cụ Nguyễn Quyền trong bài “Kêu hồn nước”, sau khi khích lệ mọi tầng lớp trong xã hội phải hiểu cái nhục nô lệ đã đưa ra lời kêu gọi thống thiết “ Than ôi! Hồn nước ta ơi! Tỉnh nghe ta gọi mấy lời đồng tâm!”. Đến “Kính cáo đồng bào” của Nguyễn Ái Quốc viết ngày 6.6.1941 vẫn nói đến “đồng tâm”: “việc lớn chưa thành không phải vì đế quốc mạnh, nhưng một là cơ hội chưa chín, hai là dân ta chưa hiệp lực đồng tâm”. Và rồi Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Hiện thời muốn đánh Pháp, Nhật ta chỉ cần một điều: Toàn dân đoàn kết ”.[Hồ Chí Minh Toàn tập. Tập 3, NXBCTQG.1995 tr.197-198]. Từ đây, khái niệm đoàn kết, toàn dân đoàn kết, đại đoàn kết dân tộc được sử dụng rộng rãi và phổ biến.

Cần lưu ý “đồng thuận” không đồng nghĩa với “đoàn kết”, “đại đoàn kết”. Trong nguyên nghĩa, thuật ngữ [khái niệm] “đồng thuận” là sự thỏa thuận với nhau về một số điều không cơ bản, mang tính cụ thể và trước mắt trong một chương trình hành động chung, nhằm hướng tới những kết quả cụ thể. Trong tiếng Pháp, “consensus” [tiếng Anh cũng viết như vậy], được Từ điển Pháp Việt xuất bản năm 1988 đưa ra hai định nghĩa: 1. sự nhất trí; 2. sự thỏa thuận[giữa các đại biểu trong một hội nghị quốc tế, dù có những ý kiến không hoàn toàn nhất trí]. Từ điển Tiếng Anh của Oxford xuất bản 1996 thì định nghĩa là “nhất trí”.

Vậy thì “đồng thuận xã hội”mà chúng ta đang “tăng cường” là thứ đồng thuận nào? Hình như khi sử dụng thuật ngữ đồng thuận trong “đồng thuận xã hội”, nội hàm của nó không còn hoàn toàn như nguyên nghĩa của nó, mà đã được phát triển cho thích hợp với đòi hỏi của chúng ta. Nhưng dù có thế, thì nguyên nghĩa của nó cũng vẫn chi phối nội dung của khái niệm đang được sử dụng. Chẳng hạn như, Điều lệ của Mặt trận được thông qua tại Đại hội VI có đoạn: “…đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, không phân biệt thành phần xã hội và dân tộc, quá khứ và ý thức hệ, tôn giáo và tín ngưỡng, miễn là tán thành công cuộc đổi mới…”.

Như vậy là, trong xã hội ta hiện có nhiều thành phần xã hội và dân tộc khác nhau, có quá khứ không giống nhau, có những tôn giáo và tín ngưỡng khác nhau, đặc biệt là không cùng một ý thức hệnhưng đều thỏa thuậnnhất trívới nhau: “tán thành công cuộc Đổi Mới…”.

Trong nội hàm của “đồng thuận” như vậy là có sự thỏa thuận, nhân nhượnglẫn nhau trên tinh thần vì sự nghiệp chung mà bỏ qua những khác biệt nhỏ [đại đồng tiểu dị]. Tạo được sự đồng thuậnthì mới đối phó được với những thách thức ngày càng gay gắt và chưa có tiền lệ của sự nghiệp phát triển đất nước trong bối cảnh của thời đại với những biến động dồn dập khó lường, đặc biệt là môi trường sống của cả hành tinh đang bị đe dọa trực tiếp, trong đó nước ta là một trong những vùng bị đe dọa nặng nề nhất.

Và, có tạo ra được sự “ đồng thuận xã hội” thì mới đối phó được với những hiểm họa đến từ bên ngoài đang là điều mà từ bài học giữ nước của ông cha truyền dạy, nhân dân cũng đang hết sức cảnh giác theo dõi. Điều này dễ hiểu, chủ quyền lãnh thổ và tinh thần yêu nướclà điểm nhạy cảm bậc nhất trong tâm thế người Việt. Chạm vào điểm nhạy cảm vào bậc nhất ấy sẽ tạo ra những phản ứng dây chuyền rất quyết liệt. Bác Hồ đã từng chỉ ra điều này trong Báo cáo chính trị đọc tại Đại hội 2 của Đảng tại Việt Bắc năm 1951 khi nói về sức mạnh của lòng yêu nước Việt Nam : “… nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước ” (nt, tập 6, tr.171).

Để có được sự đồng thuận xã hộinhư mong muốn, thì giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ phải có sự gắn kết lắng nghe, tiếp nhận và bổ sung như Đại Hội X của Đảng đã khẳng định: “Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân , dựa vào dân để xây dựng Đảng. Phải xây dựng thiết chế mở rộng và phát huy dân chủ, đảm bảo các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đều có sự tham gia xây dựng của nhân dân, phản ánh ý chí, lợi ích của nhân dân, của quốc gia, dân tộc”.(Văn kiện Đại hội X,NXBCTQG. 2006, tr.277). Trong mối quan hệ tạm gọi là “tam vị nhất thể” đó thì nhân dân làm chủ là mục tiêu.Đảng lãnh đạo như thế nào, Nhà nước quản lý ra sao để cho quyền làm chủ của nhân dânđược thực hiện trong thực tế.

Và như vậy thì cần phải hiểu rằng, để có sự đồng thuận xã hội, đòi hỏi bộ phận đảm đương chức năng lãnh đạo và quản lýphải thật sự lắng nghe ý chí và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Lắng nghe chân thành để nghiêm chỉnh tiếp thu những ý kiến đúng đắn, nhằm điều chỉnh, bổ sung chính sách, giải pháp. Không làm được những điều đó, không thể có sự đồng thuận xã hộitheo đúng nghĩa mà chúng ta mong muốn. Mặt trận phải là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Chiếc cầu nối ấy được xây dựng vững chắc đến đâu, phát huy tác dụng ra sao sẽ tạo ra được và củng cố thêm vững chắc đồng thuận xã hội, động lực quyết định sự phát triển của đất nước.

Thời gian qua, bên cạnh những thành tựu đáng quý, những cố gắng đáng khích lệ trong việc lắng nghe những đóng góp của các tầng lớp nhân dân, phải chăng vẫn còn có không ít những vấn đề, lại là những vấn đề rất nổi cộm chưa tạo được sự đồng thuận xã hộinhư chúng ta mong đợi. Điều này thể hiện rất rõ trong những tiếng nói tâm huyết và có trách nhiệm của các bậc cách mạng lão thành, trong đó có những vị mà nhân dân luôn biểu tỏ sự kính trọng về những cống hiến lớn lao vào sự nghiệp của dân tộc, của Đảng, là điểm tựa của niềm tin của dân gửi đến lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Ở đấy thể hiện tập trung cho ý chí và nguyện vọng chân chính của nhân dân.

Liệu “thiết chế mở rộng và phát huy dân chủ, đảm bảo các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đều có sự tham gia xây dựng của nhân dân, phản ánh ý chí, lợi ích của nhân dân, của quốc gia, dân tộc”mà Đại hội X đề ra đã xây dựng xong chưa, hoặc xây dựng đến đâu rồi để những ý kiến trên phát huy tác dụng?

Đương nhiên, quy chế ấy phải thể hiện được ý thức cảnh giác và dự liệu được những giải pháp nhằm đập tan những thủ đoạn nham hiểm, lợi dụng những đóng góp ấy nhằm xuyên tạc nội dung, gây kích động trong một bộ phận quần chúng thiếu am hiểu. Và để đập tan những thủ đoạn nham hiểm ấy thì tin vào dân, dựa vào dânvẫn là nguyên tắc cần vận dụng để tìm ra giải pháp đúng đắn nhất, sáng suốt nhất, hợp lòng dân nhất.

Trong “Sửa đổi lối làm việc” Bác Hồ chỉ rõ: “Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra”.Chính vì thế Người khẳng định: “Có người nói rằng: mọi việc họ đều phụ trách trước Đảng, trước Chính phủ. Thế là đúng, nhưng chỉ đúng một nửa. Họ phụ trách trước Đảng và Chính phủ, đồng thời họ phải phụ trách trước nhân dân. Mà phụ trách trước nhân dân nhiều hơn phụ trách trước Đảng và Chính phủ, vì Đảng và Chính phủ vì dân mà làm các việc, và cũng phụ trách trước nhân dân. Vì vậy nếu cán bộ không phụ trách trước nhân dân, tức là không phụ trách trước Đảng và Chính phủ, tức là đưa nhân dân đối lập với Đảng và Chính phủ”[tôi tô đậm. TL]. (nt, tập 5, tr.294, 295).

Vậy đó. Nếu không thật cảnh giác, thì trong một số trường hợp có thể “trông gà hóa cuốc”, việc “đưa nhân dân đối lập với Đảng và Chính phủ”, một tội tầy đình, mà nguyên nhân cơ bản nhất có khi lại là do không theo đúng tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh: “ Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết. Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trước mặt dân chúng. Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa”(nt, tr.297).

Trên quan điểm ấy, Hồ Chí Minh thẳng thắn và nghiêm minh đòi hỏi: “…một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”(nt.tr.261).

Rõ ràng là, để tăng cường đồng thuận xã hộinhư Báo cáo Chính trị của Mặt trận đã nêu ra, phải thật sự thấm nhuần tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh ở những điều vừa được dẫn ra? Những dẫn chứng vừa gợi ra trên đây phải chăng thuộc về những điều cốt tủy ấy? Trong những điều ấy thì mãi mãi đại đoàn kết dân tộclà điểm đặc sắc nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh. Nói như vậy bởi vì, trong tư tưởng của C.Mác, Ph Angghen, V.I Lênin không tìm thấy điều này, hoặc nếu có thì cũng chỉ đôi điều nói thoáng qua, chứ không tập trung, nổi bật như của Hồ Chí Minh.

Đó là: quá trình tiến lên của cách mạng, mục tiêu, động lực và lực lượng cách mạng không hề có sự sắp xếp loại bỏ, thay đổi, chỉ có sự nâng cao về chất mà không bớt đi về lượng , về số tầng lớp, số người tham gia. Với Hồ Chí Minh, không có chuyện một bộ phận nào đó của nhân dân, một tầng lớp xã hội nào đó “nửa chừng đứt gánh”, không thể cùng chung con đường mình đang đi. Không có chuyện ai đó, tầng lớp nào đó chỉ là “bạn đường một đoạn” trong cả chặng đường dài, vì họ không còn đủ điều kiện theo đến cùng nên phải thải loại ra.

Nếu xem xét thật kỹ sẽ thấy rằng trong tư tưởng Hồ Chí Minh không có luận điểm về sắp xếp lực lượng cách mạng trong từng giai đoạn, bố trí chiến lược, chiến thuật về lực lượng : lực lượng chủ lực, lực lượng đồng minh gần tức là đồng minh chiến lược, rồi đồng minh xa, tức là đồng minh chiến thuật, lực lượng trung lập lâu dài hoặc trung lập từng lúc một như trong những chỉ dẫn của C.Mác, Ph Angghen, V.I Lênin. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh có thể có những thay đổi về mục tiêu cụ thể, thay đổi về nhiệm vụ, chủ trương và phương pháp nhưng không có sự thay đổi về lực lượng cách mạng. Trong học thuyết và tư tưởng của C.Mác, Ph Angghen, V.I Lênin có khái niệm “bạn đường một đoạn”, còn trong Hồ Chí Minh không hề có điều ấy.

Cũng đã có một số người vì những lý do nào đó không thể đi theo Hồ Chí Minh, trong đó có người rất đau lòng, nuối tiếc vì hoàn cảnh bắt buộc và rồi sau đó họ quay trở lại với Hồ Chí Minh. Cũng có thể nói, chỉ có ai đó đã bỏ Hồ Chí Minh, chứ Hồ Chí Minh thì không bỏ một ai. Ai đó tự loại trừ chính mình, chứ Hồ Chí Minh không loại trừ ai.

Phát huy trí tuệ và năng lực của đội ngũ trí thức, trọng dụng nhân tài
Phát huy trí tuệ và năng lực của đội ngũ trí thức, trọng dụng nhân tài
Phải lưu ý nhấn mạnh điều này vì, cũng đã có người nhân danh cách mạng đã làm hoen ố sự chân thành, thủy chung như nhất của Hồ Chí Minh với khối đại đoàn kết dân tộc. Bằng những thủ đoạn bèphái, hẹp hòi, họ đã làm tổn thương đến niềm tin của dân đối với tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ đã làm vấy bẩn hình ảnh Hồ Chí Minh trong sự tin yêu và thân thiết với tấm lòng rộng mở và chân thành của HồChí Minh, làm cho những người trung thực giảm lòng tin vào Hồ Chí Minh. Những hẹp hòi, thiển cận, thủ đoạn của họ đã gây nên những tổn thất cho sự nghiệp mà Hồ Chí Minh suốt đời đeo đuổi. Thật sựquán triệt và thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc chính điểm tựa vững chắc nhất để tạo dựng và tăng cường sự đồng thuận xã hội.

Rõ ràng là, để tăng cường đồng thuận xã hội như Báo cáo Chính trị của Mặt trận đã nêu ra, phải thật sự thấm nhuần tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh ở những điều cốt tủy nhất vừa phân tích ở trên.

Về phản biện xã hội

Đây là vấn đề được thảo luận sôi động và kéo dài trong suốt hơn một năm qua trong sinh hoạt của Mặt trận các cấp, nhất là ở các Hội đồng Tư vấn của Mặt trận và cũng đã từng trải qua “Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh”.

Tuy nhiên không có “Đoạn trường thay, lúc phân kỳ” vì cuối cùng thì vấn đề phản biện xã hội cũng đã được đặt ra trong báo cáo Chính trị của Đại hội Mặt trận. Đặt ra đã tương xứng với đòi hỏi của cuộc sống chưa thì chắc phải bàn, nhưng thất sự đã được đặt ra. Cho nên, ở đây xin miễn không nói đến những “khấp khểnh”, “gập ghềnh” của vấn đề “phản biện xã hội” vốn đã được ghi vào Văn kiện của Đại hội X của Đảng: “Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội”(Văn kiện, tr.123).

Ở đây chỉ xin được bàn thêm về tiếng nói phản biện của giới trí thức vốn nặng lòng vì đất nước. Liệu có thể nói rằng: tiếng nói phản biện của họ đạt được đến đâu cũng là một khảo nghiệm phần nào về trình độ dân chủ mà xã hội đạt được.

Trong cơ cấu thành viên của Ủy ban Trung ương Mặt trận được chuẩn bị để trình ra Đại hội có 293 người trình độ từ đại học trở lên có 293 người chiếm tỷ lệ 82%. Số thành viên là cá nhân tiêu biểu là nhân sĩ, văn nghệ sĩ, trí thức, lực lượng vũ trang là 52 người chiếm tỷ lệ 11,8% và chuyên gia các lĩnh vực là 33 người chiếm tỷ lệ 9,2%, so với khóa trước tăng 32%. Rõ ràng là Mặt trận đang thể hiện rõ nét việc chú trọng đến vai trò của trí thức. Điều này cũng thể hiện việc phấn đấu thực hiện Nghị quyết của Đại hội X của Đảng nhằm đáp ứng nhu cầu mới của phát triển..

Trong Văn kiện Đảng vừa trích dẫn, có một câu: “Phát huy trí tuệ và năng lực của đội ngũ trí thức, trọng dụng nhân tài” (Văn kiện, tr.305). Câu ấy gọn và chắc nịch tựa câu “Hiền tài là nguyên khí quốc gia…”trong bài ký đề danh khắc trên bia tiến sĩ năm Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba (1443). Trong mệnh đề cô đọng và hàm súc ấy phải chăng nên trao đổi thế nào là trí thức, một vấn đề muôn thuở song đang mang tính cập nhật, sống động.

Có lẽ bàn về trí thức thì ý của Nguyễn Công Trứ là đáng suy ngẫm. Trong “Luận về kẻ sĩ”, ông viết: “Vũ trụ chi gian giai phận sự”, xem việc trong trời đất là phận sự của mình. Ý tưởng của “kẻ sĩ” Việt Nam thế kỷ XIX bắt gặp quan điểm của J.P Sartre, triết gia người Pháp thế kỷ XX: “trí thức là người làm những việc chẳng ăn nhập gì đến họ, (s’occupe de ce qui ne le regarde pas). Kỹ sư thì không lo xây cầu, thầy thuốc thì không lo khám bệnh, kinh tế gia thì không lo cộng trừ nhân chia với cái thống kê.

Tại sao họ lại xớ rớ vào những chuyện không liên quan gì đến họ vậy, tại vì họ cho đó chính là chuyện của họ. Chuyện không phải là của họ mà họ thấy là của họ. Cái thấy đó làm họ trở thành trí thức. * Phải chăng đây cũng là một cách diễn đạt cái ý vũ trụ chi gian giai phận sự?

Thật ra thì có nhiều cách diễn đạt sứ mệnh của người trí thức đích thực, chẳng hạn như giáo sư Cao Xuân Hạo, nhà ngôn ngữ học bậc thầy đã quá cố, đòi hỏi “ mỗi người trong chúng ta phải có đủ nhiệt huyết để dám tự thiêu hủy trong đấu tranh thì Chân mới thắng được Ngụy, Thiện mới thắng được Ác” cũng là cách diễn đạt một phẩm tính nổi bật của người trí thức. Từ nhận thức đó mà ông yêu cầu phải sửa lại cách dịch câu thơ của Nadim Hikmet cho đúng với tinh thần của nó:

Nếu tôi không cháy lên

Nếu anh không cháy lên.

Thì làm sao

Bóng tối

Có thể trở thành. Ánh sáng? **

Ánh sáng trí tuệ từ khối óc và trái tim của người trí thức chân chính, nói như Sartre, “người ý thức được sự xung đột xảy ra trong lòng họ và trong lòng xã hội”*, sẽ góp phần xua tan bóng tối đè nặng lên cuộc sống, góp phần vực con người đứng dậy, đi về phía trước. Cho nên, một người có bằng cấp cao chưa hẳn đã là một trí thức nếu ông ta không gắn kết công việc chuyên môn của ông với vận mệnh của đất nước, ông không quan tâm gì đến số phận của nhân dân mình mà chỉ biết có sự nghiệp riêng mình, chăm chút riêng cho tổ ấm gia đình mình. Lại không thiếu những người “thức thời” song chán nản trước thời cuộc, “mũ ni che tai”, thì cũng không phải là người trí thức theo nghĩa chân chính của nó.

Chính vì vậy, dựa vào ý của C.Mác, người ta đã đưa ra một cách định nghĩa khác về người trí thức: “trí thức là người nói sự thật, phê bình không nhân nhượng về những gì đang hiện hữu. Không nhân nhượng với nghĩa rằng họ không lùi bước trước kết luận của chính mình, hoặc trước xung đột với quyền lực, bất cứ quyền lực nào”*.Và chính ở đây, tiếng nói phản biện của người trí thức, bất cứ vào thời đại nào, dưới những thể chế nào cũng thường thường phải trải qua những “khấp khểnh”, “gập ghềnh” rất khó tránh khỏi.

Đối với nước ta, nhìn lại hơn hai thập kỷ vừa qua, kinh tế đất nước đã từng bước tăng trưởng rất đáng khích lệ, và đó là cái nền để các lĩnh vực khác bật lên. Nhưng cần sòng phẳng để nói rằng, so với trước khi Đổi Mới, mặt bằng tri thức và kinh tế đã được từng bước nâng lên nhưng mặt bằng văn hoá thì dường như không cải thiện được bao nhiêu, thậm chí nhiều lĩnh vực lại tụt xuống! Cảm nhận một cách sâu sắc và lo lắng cho điều này, người trí thức thường lên tiếng quyết liệt và mạnh mẽ về vấn đề này. Tiếng nói ấy quả là không dễ để lắng nghe.

Thế nhưng, như nhà văn hóa Phạm Văn Đồng từng lưu ý: “Đổi mới phải bắt nguồn và bắt rễ từ mảnh đất văn hóa”, vì vậy mà nói “văn hóa là đổi mới, đổi mới là văn hóa”***. Cho nên nỗi lo văn hóa đang là nỗi lo thường trực của người trí thức , và những phản biện của họ cũng thường tập trung vào lĩnh vực này.

Điều này cũng có duyên do của nó : Xin dẫn ra đây ý kiến của M.Gorky, văn hào Xô Viết một thời chiếm lĩnh ở vị trí số 1 trong các giáo trình giảng dạy văn học nước ngoài ở bậc đại học cũng như những dẫn giải về đảng tính và giai cấp tính của văn học nghệ thuật.

Trong những ý tưởng không hợp thời đăng trên nhật báo Novaja Žizn (Đời Mới) trong những năm 1917-1918, Gorky đã cảnh báo: “Cách mạng đã đánh đổ nền quân chủ, điều đó đúng! Nhưng điều đó có lẽ cũng có nghĩa rằng cuộc cách mạng đã mang chứng bệnh ngoài da vào bên trong nội tạng. [người trích nhấn mạnh.TL] Người ta không được phép tin rằng cách mạng đã chữa trị và làm phong phú cho nước Nga về mặt tinh thần.

… Vì vậy mà: “Dân tộc này phải còn nỗ lực rất nhiều để đạt đến ý thức về bản sắc và nhân phẩm của nó. Dân tộc này còn phải được trui rèn trong ngọn lửa cháy không bao giờ dứt của văn hóa, tinh thần nô lệ đã hằn sâu trong nó phải bị tẩy sạch đi”. Cho nên, văn hào Xô Viết ấy đã quyết liệt mà rằng: “Đối với tôi, lời kêu gọi Tổ quốc lâm nguy cũng không đáng sợ hơn lời kêu gọi “Hỡi các công dân! Văn hóa bị lâm nguy!” ****. Chắc chắn lời cảnh báo này không dành riêng cho nước Nga, cho người Nga.

Một lời phản biện rất khó nghe, nhưng lại rất cần phải nghe.

* Dẫn lại theo Cao Huy Thuần “Thế giới quanh ta”.NXB Đà Nẵng.2006, tr.61, 62

** Cao Xuân Hạo. “Tiếng Việt. Văn Việt. Người Việt”. NXB Trẻ.2001, tr.261

*** Phạm Văn Đồng.Tuyển tập văn học. NXB Văn học. Hà Nội 1996. tr 393.; “Văn hóa và Đổi Mới” NXBCTQG Hà Nội 1994, tr.5

**** Maxim Gorky Những ý tưởng không hợp thời đăng trên nhật báo Novaja Žizn (Đời Mới) trong những năm 1917-1918. NXB Surkamp Taschenbuch của Đức ấn hành năm 1974 . Bản dịch của Nguyễn Xuân Xanh.

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.
Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.
Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.