Luật pháp quốc tế về chủ quyền và chủ quyền của việt nam đối với quần đảo Hoàng Sa
Một là, lãnh thổ được chiếm hữu phải là đất vô chủhay là đất đã bị chủ từ bỏ;
Hai là, tác giả chiếm hữu vùng lãnh thổ đó phải là một quốc gia, việc chiếm hữu phải được thực hiện bởi chính quyền của quốc gia chiếm hữu hoặc bởi đại diện của chính quyền chiếm hữu nhân danh quốc gia đó. Như vậy, sự chiếm hữu của một cá nhân hay của tư nhân không có giá trị pháp lý;
Ba là phương pháp chiếm hữu. Phương pháp chiếm hữu đã trải qua nhiều phương thức và thay đổi qua các thời kỳ lịch sử được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Cụ thể như sau:
Trước năm 1884, quyền chiếm hữu một vùng lãnh thổ của một quốc gia là do Đức Giáo hoàng của Toà thánh Vatican quyết định ban cho, như việc chia đất cho các nước đế quốc Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ở khắp các châu lục trên thế giới vào các thế kỷ XV-XIX, tạo điều kiện cho chủ nghĩa đế quốc phát triển, chiếm hữu nhiều vùng đất mới trên khắp thế giới.
Thế kỷ XVI, nhiều quốc gia trên thế giới đã chỉ trích phương thức chiếm đất vô nguyên tắc của Giáo hoàng La Mã và một số nước đế quốc phương Tây khác trong công cuộc chiếm hữu những vùng đất mới, đã đưa ra một phương thức chiếm hữu khác, gọi là quyền khám phá: Quốc gia nào phát hiện ra một vùng đất đầu tiên thì được xem là có chủ quyền đối với vùng đất đó. Điều này có điểm vô lý là chỉ cần nhìn thấy vùng đất mà chưa cần đặt chân lên đó là đủ điều kiện xác lập chủ quyền đối với vùng đất đó. Về sau, tiêu chí này được xem là không xác đáng, nên người ta thêm vào một yếu tố nữa là chiếm hữu tượng trưng. Một quốc gia chiếm hữu tương trưng phải lưu lại trên vùng đất mới chiếm hữu một vật tượng trưng gì đó để làm biểu tượng cho ý chí chiếm hữu của mình như cắm quốc kỳ, xây bia, dựng quốc huy chẳng hạn.
Đến thế kỷ XVIII, người ta thấy sự chiếm hữu tượng trưng cũng không đủ chứng tỏ chủ quyền của một quốc gia. Vì vậy đến năm 1885, Định ước Berlin đã ra đời, ấn định một tiêu chuẩn sát thực hơn cho việc chiếm hữu lãnh thổ: Đó là sự chiếm hữu thực sựvà hành xử chủ quyềntrên lãnh thổ đã được chiếm hữu.
Nguyên tắc chiếm hữu thực sự và hành xử chủ quyền về sau đã thành tập quán, quy định trên thế giới, được cộng đồng quốc tế thừa nhận và đã được sử dụng làm cơ sở trong việc giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với lãnh thổ vô chủ hay bị chủ từ bỏ: Đó là Luật pháp Quốc tế về chủ quyềnhiện nay đang có hiệu lực.
Yếu tố vật chất được thể hiện qua việc chiếm hữu thực sự và hành xử chủ quyền trên vùng lãnh thổ đó. Điều đó có nghĩa là quốc gia chiếm hữu phải có sự hiện diện thường xuyên trên vùng lãnh thổ được chiếm hữu và phải có những hoạt động hoặc những hành vi có tính quốc gia đối với vùng lãnh thổ đó. Và sự hành xử chủ quyền phải có tính liên tục.
Yếu tố tinh thần hay còn gọi là yếu tố ý chíthể hiện ở việc quốc gia đó phải có ý định chiếm hữu thực sự lãnh thổ đó.
Một điều hết sức quan trọng là Luật pháp Quốc tế về chủ quyền cũng đã quy định việc chiếm đoạt một vùng lãnh thổ bằng vũ lực là không có giá trị về chủ quyền.
I.Cho đến nay, căn cứ vào Luật pháp Quốc tế về chủ quyền, Việt Nam là nước duy nhất có đầy đủ cơ sở pháp lý là nước có chủ quyền đối với Bãi Cát Vàng, tức quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa từ thế kỷ XVI. Chính vì vậy mà Luật sư công pháp quốc tế Pháp Monique Chemillier Gendreau trên Đài phát thanh RFI ngày 1/11/1999 đã khẳng định rằng: “Việt Nam là nước duy nhất có đủ chứng cứ lịch sử để khẳng định chủ quyền đối với các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”.
Năm 1558, khi Chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào trấn nhậm Đàng Trong đã có hai gia tướng thân tín của Thái sư Nguyễn Kim là Vũ Thì An và Vũ Thì Trung đem con cháu cùng tháp tùng. Họ là những người Việt gốc Chăm đã giúp Chúa Tiên Nguyễn Hoàng chiếm hữu Bãi Cát Vàng - một vùng lãnh thổ vô chủ - mà không có một sự phản đối hay bảo lưu của một quốc gia nào. Như vậy, Việt Nam là quốc gia đầu tiên chiếm hữu thực sự các quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa trước bất kỳ một quốc gia nào khác.
Trung Quốc đã đưa ra nhiều dẫn chứng để minh chứng rằng họ là người đã chiếm hữu quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa từ lâu mà họ gọi là “Tây Sa” và “Nam Sa”, chẳng hạn như sách Nam Châu Di Vật Chívà Phú Nam Truyệnđời Tam Quốc (220-265) cho rằng người Trung Hoa đã “phát hiện” Hoàng Sa và Trường Sa mà họ gọi là “Tây Sa” và “Nam Sa”; chẳng hạn như sách Vũ Kính Tổng Yếuthời Nhà Tống (960-1279) cho rằng Trung Hoa đã “cai quản” các quần đảo đó; chẳng hạn như cho rằng Đô đốc Lý Chuẩn năm 1909 dưới thời nhà Thanh đã đưa pháo thuyền đến Hoàng Sa, đổ bộ lên đảo Phú Lâm treo cờ, bắn súng rồi rút về và cho đó là sự khẳng định chủ quyền đối với Tây Sa.v.v…
Nhưng khi nghiên cứu các vấn đề Trung Quốc nêu ra, Luật sư Công pháp quốc tế Pháp Monique Chemillier Gendreau trong cuốn sách “Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”xuất bản năm 1996, đã đánh giá: “ Như vậy, qua việc xem xét kỹ lưỡng các tư liệu do Trung Quốc nêu ra thì thấy các tư liệu này chứng minh sự hiểu biết từ lâu và sự hiện diện của nhiều đảo nhỏ nằm rải rác đó đây trên biển Nam Trung Hoa (tức biển Đông). Nhưng chúng không cho phép đi xa hơn và không đủ làm cơ sở pháp lý để bảo vệ cho lập luận của Trung Quốc có lẽ là nước đầu tiên phát hiện, khai phá, khai thác và quản lý hai quần đảo này… Trung Quốc chỉ còn lại việc công nhận các quyền đã được thụ đắc thực sự. Trong khi đó các quyền này chỉ là cho Việt Nam ”.
Từ thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ XX, đã có gần 20 bản đồ địa lý do các nhà thám hiểm, các nhà hàng hải, các giáo sĩ phương Tây vẽ về Việt Nam với Bãi Cát Vàng, đặc biệt trong đó có bản đồ của E.G.Ravenstein in năm 1874, trên đó đã ghi rõ: “Quần đảo Hoàng Sa thuộc nước An Nam”. Tập bản đồ địa lý cổ nhất của Việt Nam là “ Toản tập Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư” do Đỗ Bá Công Đạo sưu tầm, soạn vẽ từ năm 1771 trong đó đã vẽ Bãi Cát Vàng với lời ghi chú: “ Địa phận giữa làng Kim Hộ, hai bên có hai ngọn núi, các núi này có đặt người tuần tra. Giữa biển có một dải cát dài tên gọi là Bãi Cát Vàng, dài độ bốn trăm, rộng hai mươi dặm, dựng đứng giữa biển…”. Bản đồ này có giá trị như một văn kiện của nhà nước, một tư liệu chính thức của quốc gia khẳng định Việt Nam là nước có chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa từ lâu.
Việt Nam đã có hàng chục bộ thư tịch cổ nói về sự chiếm hữu thực sự Bãi Cát Vàng từ thời Chúa Nguyễn.
Sách cổ “ Phủ Biên Tạp lục” của Lê Quý Đôn khắc in năm 1776 đã viết “ Ở ngoài của biển lớn thuộc địa phận xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi có một hòn núi mang tên là cù lao Ré (tức là đảo Lý Sơn), chiều rộng núi nay khoảng hơn 30 dặm… Ở ngoài cù lao Ré có đảo Đại Trường Sa. Ngày trước nơi đây thường sản xuất nhiều hải vật chở đi bán các nơi, nên Nhà nước có thiết lập Đội Hoàng Sa để thu nhận hải vật”.
Sách cổ “ Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí” khắc in vào các năm 1821 và 1833 đã viết: “ Thôn An Vĩnh thuộc huyện Bình Sơn, ở ngoài biển, gần phía Đông - Bắc, có hòn đảo lớn, nhiều núi linh tinh hơn 130 ngọn. Từ trong núi ra biển ước đầy một ngày đường, hoặc một vài trống canh. Trên núi có suối nước ngọt, giữa đảo có bãi Hoàng Sa dài độ 30 dặm, bằng phẳng rộng lớn, nước trong suốt đáy…”.
Sách cổ “ Đông Hành thi tuyết thảo” của Lý Văn Phức viết dưới thời vua Minh Mạng (1820-1841) có đoạn: “ Vạn Lý Trường Sa là một dải cát trắng từ biển nổi lên, phía Tây tiếp dương phận trấn Quảng Nghĩa, phía Đông giáp dương phận nước Lữ Tống (tức Philippin), phía Bắc tiếp dương phận tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến. Dằng dặc kéo ngang, không thể lường đo được. Ấy là chỗ hiểm đệ nhất, có tiếng từ xưa đến nay. Tàu thuyền qua đó thường kiêng dè việc không thấy nó. Ấy vì chân bãi cát ra rất xa. Một khi lầm (đi đụng phải) thì không thể quay trở lại”.
Sách cổ “ Đại Nam Thực Lục Chính Biên” khắc in năm 1821 đã viết: “…Vua bảo Bộ Công rằng: Dải Hoàng Sa trong địa phận Quảng Nghĩa, xa trông trời nước một màu không phân biệt được cạn hay sâu. Gần đấy thuyền buôn thường bị đắm. Nay nên dự bị thuyền bè, đến sang năm sẽ phái người tới dựng miếu, lập bia và trồng nhiều cây cối. Ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, người dễ nhận biết. Việc này có thể tránh được nhiều tàu thuyền mắc cạn. Đó cũng là việc muôn đời vậy”…
Qua hơn bốn trăm năm chiếm hữu, Việt Nam đã thực sự hành xử chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa cả về mặt yếu tố vật chất lẫn yếu tố tinh thần một cách thực sự và liên tục.
II.Sau khi Việt Nam đã chiếm hữu Bãi Cát Vàng vô chủ, Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) đã thực hiện việc quản lý và khai thác tài nguyên vùng lãnh thổ mới chiếm hữu bằng cách cử thương gia Arki Sotara (có tên Việt là Nguyễn Đại Lượng) - người cháu rể Nhật Bản được Chúa gả cho một Quận chúa hoàng tộc - thành thạo đường biển, đến mùa khô hàng năm chỉ huy đưa đội thuyền của phủ Chúa ra Bãi Cát Vàng để vẽ bản đồ, khai thác hải sản, thu vớt hàng hoá của tàu thuyền nước ngoài bị đắm.
Dưới thời nhà Nguyễn, từ thời vua Gia Long (1802-1820) đến thời vua Tự Đức (1847-1883), Đội Hoàng Sađược thành lập và củng cố, được giao thêm nhiệm vụ hàng năm trong mùa khô tiến hành thám vãng quần đảo Hoàng Sa, đo đạc hải trình, kích thước các đảo, cắm các cột mốc chủ quyền, khai thác hải vật và trục vớt hàng hoá của các tàu thuyền nước ngoài bị đắm tại đây. Tiếp sau đó, triều Nguyễn còn thành lập thêm Đội Bắc Hảido Đội Hoàng Sakiêm quản, hoạt động ở quần đảo Trường Sa, các đảo Côn Lôn, Phú Quốc, Cốt Long tận Vịnh Xiêm La để khai thác tài nguyên biển với tư cách là nước có chủ quyền.
Đến năm Đinh Mão 1867, vua Tự Đức ra chỉ dụ tôn vinh các thuỷ binh của Đội Hoàng Savà Đội Bắc Hảiđã hy sinh khi làm nhiệm vụ là Hùng binh Trường Sa.Từ đó trên đảo Lý Sơn (cù lao Ré), xã An Vĩnh, huyện An Vĩnh, huyện Bình Dương, tỉnh Quảng Ngãi đã thành lập Khu mộ Hoàng Savà cũng từ đó tổ chức Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa hàng năm vào rằm tháng ba âm lịch (đến nay lễ hội vẫn còn tồn tại ở địa phương).
“Hoàng Sa trời bể mênh mông
Người đi thì có mà không thấy về...
Hoàng Sa mây nước bốn bề,
Tháng ba khao lề thế lính Hoàng Sa”.
Các Đội Hoàng Savà Đội Bắc Hảichỉ ngừng hoạt động sau khi Pháp xâm chiếm nước ta vào năm 1885. Và từ đó cho đến Cách mạng tháng Tám 1945, người Pháp thay Việt Nam nắm chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Cũng cần biết rằng, ngày 27/12 năm Bảo Đại thứ 13 (15/2/1939), vua Bảo đại đã chuẩn y Công văn đề nghị số 466 của Ngự tiền văn phòng triều đình Huế Trần Đình Tùng tặng thưởng đơn vị lính khố xanh Trung Kỳ Huân chương Long Tinh hạng năm vì đã có công lập đồn phòng thủ ở quần đảo Hoàng Sa.
Một điều đặc biệt cho thấy Việt Nam đã thể hiện chủ quyền thực sự và hành xử chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa bằng cách cơ cấu các quần đảo đó vào một đơn vị hành chính của nước mình để thực hiện việc quản lý chặt chẽ. Dưới thời Chúa Nguyễn, quần đảo Hoàng Sa là một địa hạt thuộc xã An Vĩnh, huyện Bình Dương, phủ Quảng Nghĩa, dinh Quảng Nam. Dưới thời vua Gia Long, sau khi chia dinh Quảng Nam thành ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Nghĩa và Bình Định, quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nghĩa.
Trước khi cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, vua Bảo Đại (1926-1945) đã ra Dụ số 10 ngày 30/3/1938 quyết định sát nhập quần đảo Hoàng Sa vào tỉnh Thừa Thiên để trực tiếp quản lãnh. Ngày 5/6/1938, Toàn quyền Đông Dươ ng Jules Brévié ra Nghị định số 156-SC quyết định thành lập “Sở Đại Lý Hoàng Sa” tại quần đảo Hoàng Sa trực thuộc Công sứ Pháp tỉnh Thừa Thiên để trực tiếp quản lãnh. Ngày 5/5/1939, Toàn quyền Đông Dương Jules Brévié lại ra Nghị định số 3282 quyết định thành lập “Sở Đại Lý Nguyệt Thiềm và phụ cận” (nhóm đảo phía Tây) và “Sở Đại Lý An Vĩnh và phụ cận” (nhóm đảo phía Đông) tại quần đảo Hoàng Sa, thuộc Công sứ Pháp tỉnh Thừa Thiên để trực tiếp quản lãnh.
Dưới chế độ Việt Nam cộng hoà, ngày 17/7/1961, Tổng thống Ngô Đình Diệm ra Sắc lệnh số 174-VN quyết định quần đảo Hoàng Sa là xã Định Hải, thuộc quận Hoà Vang, tỉnh Quảng Nam. Tiếp đó, Tổng trưởng Bộ Nội vụ Việt Namcộng hoà Trần Thiện Khiêm ngày 21/10/1961 ra Nghị định số 709/BNV/HCĐP/26 quyết định sáp nhập xã Định Hải vào xã Hoà Long, quận Hoà Vang, tỉnh Quảng Nam .
Dưới chế độ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hội đồng Bộ trưởng ngày 11/12/1982 đã ra Quyết định số 194-HĐBT do Phó Chủ tịch Tố Hữu ký, quyết định nâng quần đảo Hoàng Sa thành huyện Hoàng Sa, thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Đến ngày 23/1/1997, sau khi tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng chia tách thành Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam, Chính phủ đã ra Nghị định số 07/CP do Thủ tướng Võ Văn Kiệt ký, quyết định huyện đảo Hoàng Sa thuộc thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương. Trước tình hình mới, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng Trần Văn Minh đã ký Quyết định số 2971/QĐ-UBND ngày 21/4/2009 cử ông Đặng Công Ngữ, Giám đốc Sở Nội vụ thành phố Đà Nẵng kiêm giữ chức Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Huyện đảo Hoàng Sa.
Sự việc Quần đảo Hoàng Sa cho đến nay vẫn nằm trong cơ cấu tổ chức hành chính của Việt Nam mặc dù quần đảo đó hiện tạm thời bị Trung Quốc xâm chiếm trái phép thể hiện ý chí tinh thần, ý chí chủ tâm về chủ quyền của Việt Nam không hề bị lay chuyển đối với bộ phận máu thịt đó.
Người ta nhận thấy trên bản đồ “ Trung Hoa nhân dân Cộng hoà Quốc Phân Tỉnh Tinh Đồ”của Trung Quốc xuất bản năm 1950 và các bản đồ Trung Quốc xuất bản gần đây nhất đã vẽ đường biên giới của Trung Quốc “ hình lưỡi bò”ôm lấy gần hết cả biển Đông. Đường biên giới này chạy xuống tận vĩ tuyến 40 0Bắc, cách phía Nam đảo Hải Nam gần 2000km và chỉ cách lãnh thổ Malaysia chưa đầy 40km, cách bờ biển Philippin và Việt Nam khoảng 70-80km. Theo đường biên giới này thì Trung Quốc làm chủ khoảng 80% diện tích biển Đông, trong đó bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và một số đảo khác của Việt Nam. Điều đó vi phạm Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biểnnăm 1982 (UNCLOS), vi phạm lãnh hải của Việt Nam, vi phạm chủ quyền của Việt Nam .
Năm 1956, thực dân Pháp thất bại trong cuộc chiến tranh Đông Dương, Chính phủ Pháp đã công nhận nền độc lập của Việt Nam, Lào và Campuchia và trao lại quyền quản lý các quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa cho Chính phủ Bảo Đại trước khi quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương. Lợi dụng tình hình quân đội Chính phủ Bảo Đại chưa kịp ra thay thế các đơn vị Pháp đồn trú trên quần đảo Hoàng Sa, vào tháng 4/1956, Trung Quốc đã bí mật đưa hải quân đến chiếm toàn bộ nhóm An Vĩnh ở phía Đông quần đảo Hoàng Sa một cách trái phép, gây phản ứng từ phía Việt Nam và không nhận được sự đồng tình của các nước trong khu vực và trên thế giới. Sau khi Mỹ thất bại trong cuộc chiến tranh Việt Nam và rút khỏi Thái Bình Dương năm 1972, Mỹ đã bật đèn xanh cho Trung Quốc xâm chiếm toàn bộ quần Đảo Hoàng Sa “ để chặn đường Hạm đội Liên Xô vào Việt Nam”.Trong những ngày 17-19/01/1974, dưới thời Việt Nam cộng hoà, Trung Quốc đã sử dụng hải quân và không quân đánh chiếm nhóm Nguyệt Thiềm ở phía Tây quần đảo Hoàng Sa, gây phản ứng từ phía Việt Nam và dư luận quốc tế.
Sự việc Trung Quốc dùng vũ lực để xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam vào năm 1954 và năm 1974 không có giá trị về chủ quyền đã vi phạm thực sự Luật pháp Quốc tế về chủ quyền - Định ước Berlin năm 1885 và vi phạm chủ quyền của Việt Nam.








