Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phân cơ thể người và hiến, lấy xác bắt đầu có hiệu lực
Luật ban hành nhằm giải quyết sự đòi hỏi của thực tế
Ghép tạng được cho là cách duy nhất để cứu chữa những bệnh nhân bị suy những tạng quan trọng ở giai đoạn cuối. Năm 1992, chúng ta đã ghép thận ca đầu tiên. Tính đến nay, Việt nam đã ghép thành công được 163 ca, trong đó có 158 ca ghép thận, 04 ca ghép gan và 01 ca ghép tủy. Tất cả các ca ghép này đều lấy thận, gan của người sống là cha, mẹ, anh, chị, em trong gia đình, cùng huyết thống, có các chỉ số sinh học tương đương, chưa có trường hợp nào lấy bộ phận cơ thể người hiến sau khi chết. Đây là một thành tựu lớn của ngành y khoa Việt Nam nhưng so với nhu cầu thực tế thì số lượng này không đáp ứng đủ. Hiện nay, cả nước có khoảng 5.000 – 6.000 người suy thận mãn cần được ghép thận, tại Hà Nội đã có gần 1.500 người được chỉ định ghép gan nhưng không có nguồn. Do vậy đã có người phải sang một số nước khác để ghép thận, ghép gan. Nhu cầu về mô, hiện tại có khoảng hơn 5.000 người bệnh ở Việt Nam đang chờ được ghép giác mạc. Số giác mạc được dùng để ghép chủ yếu lấy từ nguồn viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ (khoảng 50 – 100 giác mạc/năm) và không có nguồn từ người cho giác mạc.
Mục tiêu của ngành y tế Việt Nam đến năm 2020 có thể thực hiện được khoảng 1.000 ca ghép thận, 80 – 100 ca ghép gan, 20 – 30 ca ghép tim và 10 – 15 ca ghép phổi, 2.000 ca ghép giác mạc... Muốn vậy phải có nhiều mô, bộ phận cơ thể người hiến tự nguyện, nếu chỉ chờ vào nguồn hiến bộ phận cơ thể người của người thân là không thể đủ. Do đó, việc lấy mô, bộ phận cơ thể ở người hiến tự nguyện ngoài huyết thống và đặc biệt là ở người hiến sau khi chết là vô cùng cấp thiết. Thật ra, việc lấy và ghép mô, bộ phận của cơ thể người đã được Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989 và Điều lệ Khám bệnh, chữa bệnh và phục hồi chức năng năm 1991 đề cập đến. Nhưng chỉ mang tính nguyên tắc, chưa cụ thể, chưa đầy đủ nên khó thực hiện trong thực tiễn. Ngày 19.5.2005, Quốc hội đã thông qua Bộ luật Dân sự (sửa đổi), theo đó, có 3 điều quy định về hiến bộ phận cơ thể người đã được ghi nhận: quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết và quyền nhận bộ phận cơ thể người.
Ngày nay, việc “hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người” đã trở nên phổ biến trên thế giới. Để tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động này, đa số các nước trên thế giới đều có đạo luật riêng cho việc hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người như Pháp, Mỹ, Canada, Úc, Bỉ, Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore, Thái Lan... vì thế số bệnh nhân được ghép mô, bộ phận cơ thể người ở các nước này ngày càng tăng.
Luật xây dựng trên cơ sở tự nguyện, nhân đạo phù hợp với hiến pháp
Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác được xây dựng trên các quan điểm: Tôn trọng sự tự nguyện của người hiến, người được ghép mô, bộ phận cơ thể người; Vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học; Không nhằm mục đích thương mại; Giữ bí mật về các thông tin có liên quan đến người hiến, người được ghép, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác; Phù hợp với Hiến pháp, Bộ luật Dân sự (sửa đổi) năm 2005 và điều kiện kinh tế xã hội ở Việt Nam.
Luật gồm 6 chương và 40 điều với những quy định cụ thể về hiến, lấy mô, bộ phận cơ thể ở người sống; hiến, lấy mô, bộ phận cơ thể ở người sau khi chết và hiến, lấy xác; ghép mô, bộ phận cơ thể người; ngân hàng mô và trung tâm điều phối quốc gia về ghép bộ phận cơ thể người,... Luật áp dụng đối với tất cả các tổ chức, cá nhân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài có liên quan đến hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác tại Việt Nam.
Những hành vi sau đây bị nghiêm cấm (điều 11):
a) Lấy trộm mô, bộ phận cơ thể người; lấy trộm xác,
b) Ép buộc người khác phải cho mô, bộ phận cơ thể người hoặc lấy mô, bộ phận cơ thể của người không tự nguyện hiến,
c) Mua, bán mô, bộ phận cơ thể người; mua, bán xác,
d) Lấy, ghép, sử dụng, lưu giữ mô, bộ phận cơ thể người vì mục đích thương mại,
đ) Lấy mô, bộ phận cơ thể ở người sống dưới mười tám tuổi,
e) Ghép mô, bộ phận cơ thể của người bị nhiễm bệnh theo danh mục do Bộ trưởng Bộ Y tế quy định,
g) Cấy tinh trùng, noãn, phôi, giữa những người cùng dòng máu về trực hệ và giữa những người khác giới có họ trong phạm vi ba đời,
h) Quảng cáo, môi giới việc hiến, nhận bộ phận cơ thể người vì mục đích thương mại,
i) Tiết lộ thông tin, bí mật về người hiến và người được ghép trái với quy định của pháp luật,
k) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm sai lệch kết quả xác định chết não.
Trên đây là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, cần phải được nghiêm cấm. Quy định này vừa mang tính chất răn đe vừa thể hiện tính chất nghiêm khắc của xã hội, nhà nước.