Loại trừ các chất làm suy giảm tầng ôzôn
Nhận thức rõ tầm quan trọng của tầng ôzôn đối với sự sống trên Trái đất, cộng đồng quốc tế đã chung tay cam kết hành động, Công ước Vienna về bảo vệ tầng ôzôn ra đời năm 1985 và Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ôzôn được các nước phê chuẩn, tham gia năm 1987 tại Montreal, Canada. Được đánh gia là một điều ước quốc tế về môi trường thành công nhất từ trước đến nay, Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ôzôn với mục tiêu loại trừ hoàn toàn sản xuất và sử dụng các chất ODS ở tất cả các nước phát triển và đang phát triển, đã nhận được sự đồng thuận toàn cầu, 196/196 quốc gia phê chuẩn và thực hiện. Nghị định thư Montreal cũng nhận được sự ủng hộ của các tập đoàn công nghiệp và các ngành công nghiệp trên toàn cầu. Cho đến nay, Nghị định thư Montreal là một hình mẫu về hợp tác quốc tế giữa các nước phát triển và đang phát triển và giữa các nước đang phát triển với nhau, trong đó các nước phát triển đi đầu trong việc loại trừ các chất ODS và đóng góp tài chính cho các nước đang phát triển.
Từ ngày 01/01/2010, toàn bộ các chất CFC, halon, CTC đã được loại trừ hoàn toàn trên thế giới, ngoại trừ một lượng nhỏ được sử dụng trong nghiên cứu khoa học và sản xuất thuốc hen. Các nước sản xuất CFC, halon và CTC đã đóng cửa các nhà máy sản xuất các chất này. Nếu không có Công ước Vienna và Nghị định thư Montreal, thế giới có thể phải đối mặt với sự tăng thêm 20 triệu ca ung thư da và 130 triệu ca đục thủy tinh thể, chưa kể đến tác hại do tia cực tím gây ra cho hệ thống miễn dịch của con người, tác hại đối với động vật hoang dã và nông nghiệp.
Như chúng ta đã biết, tất cả các chất CFC, HCFC và HFC có tiềm năng làm nóng lên toàn cầu cao gấp hàng nghìn lần CO 2và các chất HFC bị kiểm soát bởi Nghị định thư kyoto. Với việc loại trừ hoàn toàn các chất CFC, halon và CTC, các nước thành viên Nghị định thư Montreal đã góp phần giảm phát thải vào khí quyển 135 giagton CO 2tương đương, tương ứng với giảm phát thải 11 Giagton CO 2/năm, cao gấp 4-5 lần mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính mà Nghị định thư Kyoto đặt ra trong thời kỳ cam kết ban đầu.
Để có được thành tựu nêu trên, các quốc gia thành viên Nghị định thư Montreal đã có những biện pháp chính sách, tài chính và công nghệ mạnh mẽ trên cả bình diện toàn cầu và ở từng quốc gia, các quy định của Nghị định thư đã được tuân thủ đầy đủ ở các nước phát triển và đang phát triển. Việc điều hành thực hiện Nghị định thư được tạo dựng thống nhất ở tất cả các nước, các biện pháp ở từng nước có thể khác nhau nhưng đều chung một mục tiêu duy nhất là loại trừ hoàn toàn tiêu thụ các chất làm suy giảm tầng ôzôn.
Việt Nam tham gia Nghị định thư Montreal từ tháng 10/1994. Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, Bộ TN&MT đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan, các doanh nghiệp sử dụng ODS đã loại trừ hoàn toàn 500 tấn CFC, 3,8 tấn halon là lượng tiêu thụ hàng năm ở nước ta từ ngày 01/01/2010. Thực hiện Công ước Vienna và Nghị định thư Montreal trách nhiệm của Việt Nam trong các năm tiếp theo là loại trừ hoàn toàn tiêu thụ các chất HCFC, quá trình loại trừ các chất HCFC có thể kéo dài tới năm 2030, tuy nhiên nếu nhận được hỗ trợ đầy đủ về tài chính và công nghệ từ phía các tổ chức quốc tế, chúng ta có thể hoàn thành loại trừ các chất HCFC vào năm 2025. Đối với lĩnh vực dịch vụ sửa chữa bảo dưỡng thiết bị, chúng ta vẫn được phép sử dụng HCFC cho đến năm 2040.
Trong hai năm 2009-2010, Việt Nam tiêu thụ khoảng 3200 tấn HCFC-22 trong sản xuất và dịch vụ điều hòa không khí và làm lạnh, hơn 500 tấn HCFC-141b và gần 7.000 tấn polyol trộn sẵn HCFC-141b trong sản xuất xốp. Lượng tiêu thu các chất HCFC này có mức tăng 10-15%/năm, trong khi chúng ta phải tuân thủ hạn định ngưng lượng tiêu thụ ở mức cơ sở trong các năm 2013-2014 và loại trừ 10% lượng tiêu thụ cơ sở các chất này từ 01/01/2015 là một thách thức lớn đối với Việt Nam trong tuân thủ Nghị định thư Montreal.
Để đảm bảo tuân thủ hạn định loại trừ các chất HCFC theo Nghị định thư Montreal, Cục KTTV&BĐKH với sự trợ giúp của Ngân hàng thế giới, đã xây dựng và trình Ban chấp hành Quỹ đa phương thi hành Nghị định thư Montreal, dự án “Kế hoạch quốc gia quản lý loại trừ các chất HCFC của Việt Nam”. Dự án đã được Ban chấp hành Quỹ thông qua giai đoạn I với hỗ trợ tài chính cho Việt Nam loại trừ các chất HCFC là gần 10 triệu USD và sẽ được thực hiện từ năm 2012 đến năm 2016. Dự án thực hiện: Loại trừ hoàn toàn sử dụng hơn 500 tấn HCFC-141b và gần 2.000 tấn polyol trộn sẵn HCFC-141b tại 12 doanh nghiệp sản xuất xốp cách nhiệt thông qua việc thay thế toàn bộ dây chuyền công nghệ sản xuất xốp dùng HCFC-141b sang công nghệ sản xuất xốp sử dụng cyclopentane. Các doanh nghiệp sản xuất này sẽ được hỗ trợ 80% chi phí chuyển đổi sang công nghệ sản xuất an toàn cho môi trường.
Xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch hành động nhằm giảm tiêu thụ môi chất lạnh HCFC-22 trong các thiết bị cấp đông, giảm lắp đặt mới các thiết bị cấp đông dùng môi chất lạnh HCFC-22 trong các kho lạnh của ngành thủy sản. Thúc đẩy giảm tiêu thụ năng lượng và nâng cao hiệu suất năng lượng cho các điều hòa không khí gia đình được sản xuất ở Việt Nam, chuẩn bị cho giai đoạn tiếp theo là giảm dần sản xuất điều hòa không khí gia đình sử dụng ga lạnh HCFC-22. Tăng cường và nâng cao năng lực cho các cơ quan liên quan trong việc xây dựng và áp dụng các biện pháp chính sách đồng bộ cho việc loại trừ các chất HCFC ở Việt Nam, tăng cường năng lực cho cơ quan hải quan trong việc kiểm soát xuất khẩu các chất HCFC.
Giai đoạn II của dự án sẽ được Cục KTTV7BĐKH phối hợp với Ngân hàng thế giới xây dựng và vận động tài trợ vào năm 2015. Theo ước tính Việt Nam cần thêm hỗ trợ tài chính khoảng 20-25 triệu USD để loại trừ hoàn toàn việc sử dụng các chất HCFC./.








