Liên hiệp hội Việt Nam: Đoàn kết – Sáng tạo - Phát triển
Sau đây là nội dung bài trả lời phỏng vấn của PGS. TS Hồ Uy Liêm.
Phóng viên (PV): Thưa ông, nhìn lại quá trình hoạt động và phát triển của Liên hiệp hội Việt Nam trong nhiệm kỳ V (2004 – 20009), ông đánh giá những sự kiện và thành tựu nào là nổi bật, đáng ghi nhận nhất? Những bài học kinh nghiệm rút ra từ hoạt động thực tiễn (cả thành công cũng như chưa thành công) của Liên hiệp hội Việt Nam trong 5 năm qua?
PGS.TS Hồ Uy Liêm:Điều đầu tiên đáng ghi nhận trong nhiệm kỳ qua là Liên hiệp hội Việt Nam phát triển nhanh chóng về mặt tổ chức, tập hợp đông đảo trí thức khoa học và công nghệ trong phạm vi cả nước, phấn đấu để xứng đáng với vai trò của một tổ chức chính trị - xã hội mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Mạng lưới cơ sở của Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên phát triển sâu rộng trong xã hội. Ngày càng có nhiều trí thức khoa học – công nghệ trong nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham gia hội. Trong hệ thống Liên hiệp hội có 125 hội thành viên, gồm 55 Liên hiệp hội địa phương, 70 hội ngành toàn quốc (thực chất đó là các hội chuyên ngành hoạt động trong cả nước, như Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Hội Vật lý Việt Nam…); trong đó có 04 Tổng hội với hơn 80 hội thành viên. Hiện đã có trên 500 đơn vị khoa học và công nghệ được tổ chức và hoạt động theo Nghị định 81/2002/NĐ-CP của Chính phủ (gọi tắt là đơn vị 81) trong đó khoảng một nửa số đơn vị 81 trực thuộc Đoàn Chủ tịch Hội đồng Trung ương, số đơn vị 81 còn lại trực thuộc các hội thành viên.
Đặc biệt, dưới sự chỉ đạo của Đoàn Chủ tịch, sự năng động, tích cực của Ban công tác phía Nam, sự quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi của các cấp uỷ Đảng và chính quyền, ở tất cả các tỉnh, thành phố phía Nam đã hình thành phát triển liên hiệp hội
Tính đến nay hệ thống Liên hiệp hội Việt Nam đã tập hợp được khoảng 1,8 triệu hội viên, trong đó có 80 vạn trí thức, chiếm khoảng 1/3 số trí thức trong cả nước.
Điều thứ hai đáng ghi nhận và suy nghĩ qua thực tiễn hoạt động 5 năm qua là mối gắn kết giữa chức năng chính trị - xã hội của Liên hiệp hội Việt Nam cùng Liên hiệp hội địa phương và chức năng xã hội - nghề nghiệp của các hội ngành ngày càng sâu sắc, tạo điều kiện và năng lực đóng góp cho xã hội. Mười nhà khoa học được bầu vào Quốc hội khoá XII; nhiều đại biểu được bầu vào Hội Đồng nhân dân địa phương là thành viên Liên hiệp hội TW hoặc các hội chuyên ngành.
Sự gắn kết nêu trên càng thể hiện rõ nét trong quá trình điều hoà, phối hợp hoạt động của hệ thống Liên hiệp hội cùng các hội thành viên, các đơn vị trực thuộc nhằm thực hiện các nhiệm vụ chức năng chủ yếu.
Về nhiệm vụ thông tin, phổ biến kiến thức khoa học và kỹ thuật, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả đáng kể. Báo Khoa học và Đời sống thuộc Liên hiệp hội Việt Namđã qua 50 năm hoạt động và trưởng thành, đó là tờ báo phổ biến khoa học đầu tiên của nước Việt Nam mới. Nhà xuất bản Tri thức chưa đầy 5 tuổi cũng đã có cố gắng trong việc phổ biến những tinh hoa của các nền văn minh thế giới, đặc biệt là những tri thức mới nhằm nâng cao dân trí, xây dựng nền tảng tri thức cho công cuộc đổi mới của đất nước.
Nhiều tạp chí, tập san chuyên ngành đăng tải kết quả công trình, đề tài nghiên cứu và tham gia tư vấn, phản biện, giám định xã hội.
Hệ thống Liên hiệp hội Việt Nam hiện có 83 cơ quan báo chí in, với 197 loại ấn phẩm, chiếm 1/3 số ấn phẩm báo chí Khoa học – Công nghệ trong cả nước.
Các nhà khoa học thuộc Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên, các tổ chức trực thuộc đã tổ chức nhiều hội thảo, diễn đàn khoa học, các lớp tập huấn, các câu lạc bộ chuyên đề, với nhiều ấn phẩm phổ biến khoa học.
Tuy nhiên, cũng chính trong lĩnh vực hoạt động này đòi hỏi hệ thống Liên hiệp hội Việt Nam phải tăng cường gắn kết và định hướng rõ nét hơn nữa để có những bước đột phá. Đoàn Chủ tịch vừa mới đề xuất với Quốc hội cho phép Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì dự án xây dựng Luật về phổ biến khoa học, đồng thời đang thực hiện thí điểm một số chương trình phổ biến khoa học – công nghệ phục vụ sản xuất và đời sống ở một số Liên hiệp hội địa phương (như Liên hiệp hội Hải Dương với nguồn kinh phí khoảng hơn 1 tỷ đồng).
Về hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội – một thế mạnh của hệ thống Liên hiệp hội Việt Nam , trong 5 năm qua chúng ta đã gặt hái được nhiều thành tựu. Đặc biệt, kết quả tư vấn, phản biện của Liên hiệp hội Việt Nam đối với chương trình khai thác Bauxit ở Tây Nguyên đã được báo cáo với Bộ Chính trị; kết quả tư vấn, phản biện về Dự án Xây dựng nhà máy điện nguyên tử tại Ninh Thuận đã được đưa ra Quốc hội thảo luận…
Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên đã tổ chức cho đông đảo các nhà khoa học đóng góp ý kiến vào dự thảo các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước.
Các hội ngành tích cực và chủ động tập hợp chuyên gia để tư vấn, phản biện về các vấn đề liên quan. Chẳng hạn, Tổng hội Xây dựng Việt Nam tham gia phản biện các dự án xây dựng sân gôn, tạo luận cứ khoa học và kinh tế - kỹ thuật cho cơ quan quản lý Nhà nước xem xét rút giấy phép đầu tư một số dự án. Hội Giống cây trồng Việt Nam đóng góp ý kiến vào Dự án phát triển 1 triệu ha lúa lai, giúp giảm kinh phí dự kiến từ 1200 tỷ đồng xuống còn 46 tỷ đồng. Hội Hoá học Việt Nam thẩm định dự án xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất. Tổng hội Địa chất Việt Nam tư vấn về dự án khai thác than ở bể than sông Hồng với trữ lượng lớn. Tổng hội Cơ khí Việt Nam tư vấn về chiến lược phát triển ngành cơ khí của đất nước. Tổng hội Y học Việt Namvà Hội Dược học Việt Nam tích cực đóng góp ý kiến cho dự án luật Hành nghề y…
Các Liên hiệp hội địa phương đã tư vấn, phản biện một số chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội quan trọng. Liên hiệp hội TP. Hồ Chí Minh đã thực hiện tư vấn, phản biện cho 79 dự án phát triển thành phố.
Năm năm qua, cùng với các mối quan hệ hợp tác truyền thống với các bộ, ban, ngành và các đoàn thể trong Mặt trận Tổ quốc, đã xây dựng chương trình hợp tác với các cơ quan trong nước nhằm thực hiện nhiệm vụ tư vấn, phản biện và giám định xã hội về các chủ trương, chương trình, dự án quan trọng của đất nước. Đây là nhiệm vụ đã được Thủ tướng Chính phủ giao theo Quyết định 22/2002/QĐ-TTg và được thể hiện trong Điều lệ của Liên hiệp hội Việt Nam . Đặc biệt, năm 2009, Liên hiệp hội Việt Nam và Viện Nghiên cứu lập pháp (trực thuộc Uỷ ban thường vụ Quốc hội) đã ký kết thoả thuận phối hợp hoạt động 5 năm tập trung vào các nội dung tư vấn chính sách, trao đổi thông tin, ứng dụng các kết quả nghiên cứu. Chúng ta đã có chương trình phối hợp công tác với Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội nhằm góp ý kiến cho một số dự án luật.
Về hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, điều tra cơ bản và bảo vệ môi trường, Liên hiệp hội Việt Nam trong nhiệm kỳ V đã thực hiện phương châm “ hướng mạnh các hoạt động về cơ sở”, tăng cường sự tham gia của các hội thành viên và các đơn vị trực thuộc. Hằng năm, khoảng gần 50% số lượng các đề tài, dự án được phân bổ cho các hội thành viên, trên 50% cho các đơn vị 81 trực thuộc. Nhiều kết quả nghiên cứu đã được áp dụng và chuyển giao cho các địa phương.
Từ mấy năm nay, Liên hiệp hội là đầu mối giúp Bộ Khoa học và Công nghệ phân bổ kinh phí sự nghiệp khoa học từ Bộ Khoa học và Công nghệ. Từ năm 2006, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã đưa Liên hiệp hội Việt Nam thành một đầu mối kế hoạch phân bổ kinh phí sự nghiệp môi trường.
Tuy nhiên, cũng cần nhận thấy các hoạt động này của chúng ta vẫn còn tản mạn, manh mún, cần định hướng rõ hơn và ưu tiên tập trung nguồn lực cho những công trình trọng điểm.
Về hoạt động xây dựng và đẩy mạnh phong trào sáng tạo khoa học và công nghệ, với sự phối hợp của các bộ ngành và đoàn thể, Liên hiệp hội Việt Nam đóng vai trò chủ đạo trong tổ chức Giải thưởng Sáng tạo khoa học và công nghệ Việt Nam, Hội thi sáng tạo kỹ thuật ở 2 cấp: cấp toàn quốc, cấp bộ ngành, địa phương; Cuộc thi sáng tạo dành cho thanh thiếu niên, nhi đồng và Giải thưởng “Sáng tạo kỹ thuật VIFFOTEC” dành cho sinh viên các trường đại học. Giải thưởng Sáng tạo KH&CN Việt Nam được xã hội đánh giá cao, hằng năm được Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) tham gia trao giải. Đây là sự khuyến khích, tôn vinh rất có ý nghĩa đối với sự gắn kết hoạt động nghiên cứu với sản xuất doanh nghiệp, vốn là khâu còn đang non yếu ở nước ta. Điều đáng mừng nữa là trong hội nhập quốc tế, mấy năm gần đây đã có những cuộc triển lãm các sản phẩm từ các ý tưởng sáng tạo của giới trẻ (từ 6 đến 18 tuổi) tổ chức tại một số nước như Nhật Bản, Ấn Độ, Malaysia… Năm nay, cuộc triển lãm sáng tạo trẻ sẽ được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội 1000 năm tuổi, mà Ban tổ chức có sự tham gia của Phó Thủ tướng Chính phủ và do Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì.
Nhiệm kỳ 2004 – 2009 đánh dấu sự chuyển biến tích cực về hoạt động hợp tác quốc tế của Liên hiệp hội Việt Nam trong bối cảnh đất nước ngày càng hội nhập sâu rộng với các nước khu vực và trên toàn thế giới.
Được sự đồng ý của Ban Bí thư Trung ương Đảng, đầu năm 2006 Liên hiệp hội Việt Nam phối hợp với Trung tâm Đông Tây (Hoa Kỳ) tổ chức thành công hội thảo về phát triển bền vững khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, thu hút sự tham gia của hơn 400 học giả quốc tế.
Thực hiện chủ trương “Việt Nam sẵn sàng làm bạn với các nước trên thế giới” của Đảng và Nhà nước ta, Liên hiệp hội Việt Nam ngày càng thu hút sự quan tâm hợp tác của các quốc gia và các tổ chức quốc tế, như Hội Kỹ sư các nước ASEAN, Hiệp hội khoa học và công nghệ Trung Quốc (CAST), Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Lào, Tổ chức CARE quốc tế, chương trình UNDP tại Việt Nam, tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), Tổ chức Y tế thế giới…
Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế trong việc tập hợp, thu hút và phát huy tiềm năng của đội ngũ trí thức khoa học công nghệ Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào sự nghiệp xây dựng đất nước.
Để khắc phục những hạn chế này, tôi nghĩ, Liên hiệp hội Việt Nam cần được Đảng và Nhà nước mở ra những hành lang pháp lý thông thoáng hơn và cần có những cách làm linh hoạt, mềm dẻo, vì quyền lợi tối cao của dân tộc.
PV: Xin ông cho biết những nội dung chủ yếu trong Chiến lược phát triển giai đoạn 2010 – 2020 của Liên hiệp hội Việt nam ?
PGS.TS Hồ Uy Liêm:Như chúng ta đã biết, các nhiệm vụ chủ yếu của chúng ta trong 10 năm tới là nhằm đạt mục tiêu: Liên hiệp hội Việt Nam trở thành một tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh từ trung ương đến địa phương; tập hợp đông đảo đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các hội thành viên và của trí thức khoa học và công nghệ; là nhân tố quan trọng đưa khoa học và công nghệ trở thành nền tảng và động lực chủ yếu phát triển đất nước.
Vừa qua đã tiến hành tổng kết 10 năm Liên hiệp hội Việt Nam thực hiện Chỉ thị 45-CT/TW của Bộ Chính trị. Sau khi có Nghị quyết 27 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Liên hiệp hội Việt Nam đã xây dựng chiến lược phát triển và chương trình hành động để có một bước phát triển vượt bậc trong toàn hệ thống.
Sau Nghị quyết số 27-NQ/TW về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đổi mới, cần có những văn kiện tiếp theo bổ sung cho Chỉ thị 45-CT/TW của Bộ Chính trị. Về phía Liên hiệp hội Việt Nam, chúng ta phải có quyết tâm cao và đủ năng lực để thực hiện tốt vai trò là đầu mối quan hệ với cơ quan Đảng, Nhà nước trong việc giải quyết những vấn đề liên quan đến quyền lợi của trí thức khoa học – công nghệ, đặc biệt là trí thức trẻ, trí thức trong các thành phần kinh tế tư nhân, trí thức hành nghề tự do, trí thức người Việt ở nước ngoài.
PV: Thưa ông, để đạt được mục tiêu nêu trên, thì khâu nào là trọng yếu nhất trong việc xây dựng bộ máy và năng lực của hệ thống Liên hiệp hội Việt Nam ?
PGS.TS Hồ Uy Liêm:Tôi cho rằng sự phát triển mạnh mẽ về số lượng, phong phú về hình thức của Liên hiệp hội Việt Nam trong gần một phần tư thế kỷ qua, tuy đáng tự hào, nhưng vẫn còn là trên bề rộng, có tính khai phá, mở đường, chưa đi vào chiều sâu. Bộ máy của Liên hiệp hội Việt Nam hãy còn tương đối mỏng và thiếu tính chuyên nghiệp trong các lĩnh vực hoạt động. Chúng ta không chủ trương hành chính hoá bộ máy, nhưng tổ chức từ trung ương đến địa phương từ Liên hiệp hội đến các hội chuyên ngành cần phải có sự nhất quán, có sự phối hợp, điều hoà ăn ý, nền nếp, tạo ra những hiệu quả thiết thực cho hội viên và cho xã hội. Về nghiệp vụ hoạt động hội, tôi nhất trí cần thành lập Học Viện nghiên cứu về hội và đào tạo cán bộ hội, nhất là đối với giới trẻ giàu nhiệt huyết và năng lực. Cần từng bước xây dựng và nâng cao các nguồn lực hoạt động của hội: nhân lực, tài lực, tin lực… Trong các dự thảo văn kiện cho đại hội VI, chúng tôi cũng đã quán triệt tinh thần nêu trên.
PV: Xin ông cho biết một số nét về sự phát triển và đóng góp của các đơn vị 81 cho Liên hiệp hội nói riêng và cho đất nước nói chung? Còn những hạn chế, nhược điểm gì cần khắc phục?
PGS.TS Hồ Uy Liêm:Tôi cho rằng từ Nghị định 35 đến Nghị định 81 của Chính phủ và Luật về khoa học công nghệ, Nhà nước ta đã có một bước tiến lớn trong việc “cởi trói” cho đội ngũ khoa học – công nghệ nhằm đẩy mạnh nghiên cứu triển khai phục vụ sản xuất, đời sống trong cơ chế thị trường. Hơn 500 đơn vị 81 hoạt động theo nguyên tắc tự quản, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật, kinh phí làm đề tài một phần nhỏ do Nhà nước cấp, một phần từ hợp đồng với doanh nghiệp, còn lại là từ tài trợ của các tổ chức quốc tế.
Các đơn vị 81 hoạt động trong rất nhiều lĩnh vực của xã hội, từ chăm sức khoẻ, bình đẳng giới đến bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu; từ xoá đói giảm nghèo, phát triển cộng đồng đến phòng chống HIV/AIDS; từ khuyến nông đến giáo dục – đào tạo… Trong các đơn vị 81 có cả các Viện nghiên cứu, các trường Đại học, trường dạy nghề. Vừa qua, mạng lưới phòng chống HIV/AIDS với sự phối hợp của các đơn vị 81 đã đăng ký với Quỹ Toàn cầu về phòng chống HIV/AIDS, số rét và lao (UNAID) với một Dự án lớn khoảng 15 đến 17 triệu USD. VUSTA đã tham gia đấu thầu dự án này và đã trúng thầu. Sắp tới, chúng ta phải tìm cách tổ chức quản lý tốt dự án này với sự hỗ trợ của Cơ quan UNAID của Liên hợp quốc.
Nếu nói về những hạn chế, tồn tại của các Đơn vị 81, tôi cho rằng trong quá trình phát triển và chọn lọc, cũng có những đơn vị không đáp ứng được yêu cầu xã hội, hoặc có những biểu hiện tiêu cực. Liên hiệp hội Việt Nam với vai trò là cơ quan chủ quản, cần đề ra những quy chế hợp lý và có bộ máy kiểm tra chặt chẽ, kịp thời biểu dương những đơn vị làm tốt, ngăn chặn những việc làm sai trái, phạm luật.
PV: Thưa ông, vai trò của công tác thông tin trong quá trình phát triển của Liên hiệp hội Việt Nam như thế nào? Sắp tới chúng ta cần phải làm gì?
PGS.TS Hồ Uy Liêm:Sống trong thời đại thông tin, và hơn nữa hệ thống Liên hiệp hội Việt Nam lại là tổ chức theo mô hình mạng lưới, với các hoạt động điều hoà, phối hợp, kết nối giữa các đơn vị trong nội bộ, làm cầu nối giữa trí thức khoa học – công nghệ với các cơ quan Đảng, Nhà nước, kết nối giữa trí thức trong nước và quốc tế, bởi vậy vai trò của thông tin là vô cùng quan trọng. Liên hiệp hội Việt Nam có một lực lượng báo chí và truyền thông to lớn, nhưng chưa thật mạnh, vì chưa có sự gắn kết phát huy để đạt mục tiêu quan trọng.
Nhằm tăng cường tiềm lực công nghệ thông tin để Liên hiệp hội Việt Nam điều hoà, phối hợp, gắn kết với các Liên hiệp hội địa phương, các hội thành viên và các đơn vị 81, Chính phủ đã quyết định hỗ trợ cho chúng ta triển khai dự án Cổng điện tử. Qua 2 năm thực hiện, Dự án đã bước đầu phát huy hiệu quả và đang tiếp tục triển khai các phần mềm quản lý trong toàn hệ thống. Tôi mong rằng trong nhiệm kỳ tới Liên hiệp hội Việt Nam cần xúc tiến xây dựng một tờ báo điện tử làm công cụ thông tin truyền thông và thực hiện các nhiệm vụ của hội.
PV: Nhân dịp đầu năm mới - năm Canh Dần (2010), thay mặt Bản tin KCP và trang website vusta.vn, xin kính chúc Phó Giáo sư Tiến sỹ - Quyền Chủ tịch Liên hiệp hội Việt nam cùng gia đình dồi dào sức khoẻ, trí tuệ và đầy niềm vui, hạnh phúc!
PGS.TS Hồ Uy Liêm:Nhân năm con Hổ, tôi xin chúc tất cả các bạn đọc của Bản tin KCP, trang website vusta.vn và toàn thể anh chị em trong Liên hiệp hội Việt Nam có sức khoẻ và trí dũng như chúa sơn lâm, vượt qua mọi thử thách, để có thật nhiều thành đạt, hạnh phúc, tiến tới Đại hội VI với tinh thần “Đoàn kết - Sáng tạo – Phát triển”.
PV: Xin cảm ơn sự nhiệt thành đóng góp của ông.








