Lê Thánh Tông: ý chí bảo vệ vùng biển Tổ quốc
Vào năm 1172 (niên hiệu Chính Long Bảo Ứng thứ 10), Lý Anh Tông lại tự thân dẫn tướng sĩ đi tuần các hải đảo ở địa giới các bang Nam - Bắc, vẽ bản đồ, ghi chép cảnh, vật đem về.
Sang đời Trần, trong việc quan tâm đến biển đảo, các vua Trần và Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã đặc biệt chú ý về vị trí chiến lược quân sự của biển đảo, bởi vì mỗi khi đem quân xâm lược Đại Việt, phong kiến phương Bắc thường tiến vào nước ta theo ngả đường bộ và đường biển.
Vua Trần Nhân Tông, sau khi nhường ngôi cho con (là vua Anh Tông), ngài đã lên đỉnh núi Yên Tử, nơi có thể “phóng mắt nhìn ra tận cùng biển xanh” (thơ Nguyễn Trãi), dựng am tu Thiền ở đó.
Vì sao Trần Nhân Tông lại phải vất cả trèo non vượt suối đến ở chỗ chỉ nghe thấy “tiếng người cười nói trong mây xanh” (thơ Nguyễn Trãi).
Trong sách Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh,Ngô Thì Nhậm đã lý giải rất sáng rõ câu hỏi này: “Mọi người thấy đức Điều Ngự (Trần Nhân Tông) là Tổ thứ nhất (Thiền phái Trúc Lâm) khi lên ở chùa Hoa Yên thì cho là ngài đi tu; nhưng có biết đâu lúc bấy giờ, đức Tổ biết lấy thiên hạ làng chung, gặp khi nước nhà yên ổn, song nước láng giềng ở ngay bên cạnh rất lớn mạnh, nên ngày chưa yên tâm, mà việc đó không thể nói ra, sợ lòng người dao động. Nhận xét thấy Yên Tử là một ngọn núi cao, phía đông có thể quan sát mặt Yên, Quảng; fia bắc có thể trông tới Lạng Sơn, Lạng Giang nên mới dựng tự viện, thường qua lại xem động, tĩnh, khiến cho quân giặc ở ngoài không thể gây những việc đáng lo ngại. Đó mới thật là Vô lượng lực Đại thế chí Bồ Tát”
Đến thời Lê, Lê Thánh Tông (1442 - 1497) là một trong những vị Hoàng đế tài giỏi nhất nước ta trong việc phòng thủ, bảo vệ vững chắc lãnh thổ biên giới của Tổ quốc. Khi nói đến Lê Thánh Tông, những người có học, có đọc lịch sử dân tộc, không ai không biết đến Lê Thánh Tông viết trong tờ sắc dụ năm 1473, gửi cho Lê Cảnh Huye, viên quan trấn thủ vùng biên giới gần Quảng Tây: “Một thước núi, một tấc sông của ta không được vứt bỏ… Nếu người dám lấy một thước, một tấc đất của Thái Tổ Lê Lợi mà cho giặc thì tội phải giết cả họ” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Ý chí bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Lê Thánh Tông được thể hiện một cách kiên quyết, cứng rắn trong suốt 38 năm ông làm vua (1460 - 1497) và đó là thành tích vẻ vang trong chính sách đối ngoại của Lê Thánh Tông.
Đường biên giới trong lịch sử giữa Việt Nam và Trung Quốc, được giới sử học chia thành ba khu vực: khu giáp ranh giữa tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng của Việt Nam với tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc; khu Tây Bắc của Việt Nam tiếp giáp với tỉnh Vân Nam, Trung Quốc và khu biên giới Đông Bắc thuộc tỉnh Quảng Ninh nước ta, tiếp giáp với vùng biển tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.
Hàng nghìn năm qua dưới chế độ phong kiến, vấn đề biên giới bao giờ cũng là vấn đề phức tạp nhất trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trước áp lực lấn chiếm đất đai của phong kiến phương Bắc, các triều đại Việt Nam phải luôn luôn chủ động đối phó bằng nhiều biện pháp nhằm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia, khi nào nước ta thực lực mạnh và những người đứng đầu Nhà nước phong kiến có ý chí dân tộc cao, không nhượng bộ để đối phương lấn lướt, thì “một thước đất” của Tổ Tiên vẫn được giữ vững. Lê Thánh Tông là một tấm gương lịch sử vĩ đại trong chính sách đối ngoại và bảo vệ lãnh thổ nước Đại Việt, đồng thời vị hoàng đế này cũng là người đã làm cho mối quan hệ giữa Đại Việt với nhà Minh hồi nửa sau thế kỷ XV vừa hiểu biết, vừa tôn trọng lẫn nhau, sống hòa hiếu trong mối bang giao truyền thống.
Tại khu vực biên giới Đông Bắc, nơi thường hay xảy ra tranh chấp là địa phận châu Khâm cũ, tức là vùng fia Tây tỉnh Quảng Đông tiếp giáp với huyện Hải Ninh của ta. Đây là một miền núi non hiểm trở, có biển bao quanh, giữ vị trí xung yếu về quân sự. Về kinh tế, là nơi đầu mối giao thông buôn bán trên biển giữa nước ta với Trung Quốc và các nước lân cận khác. Bởi vậy, đối với khu vực này, Trung Quốc cũng như Việt Nam, đời nào cũng chú ý xây dựng đồn lũy phòng thủ. Thí dụ vào năm thứ năm niên hiệu Vĩnh Lạc (1407), Thượng thư Hoàng Phúc bàn với triều Minh rằng: “Huyện Vạn Ninh tiếp giáp với cửa khẩu Vân Đồn của Giao Chỉ nối liền với địa phương châu Khâm tỉnh Quảng Đông, rất hiểm yếu, nên đóng thêm quân ở châu Khâm, đặt đồn bảo vệ”.
Về fia Việt Nam, vào triều Lê, Lê Thánh Tông cho xây dựng đồn lũy ở Tân Yên, Vạn Ninh, chọn tướng giỏi làm trấn thủ ở An Bang, lấp đường các cửa ải ngăn ngừa người Minh xâm phạm. Vì vùng biển Đông Bắc có Vân Đồn nằm trên đường giao thông giữa Trung Quốc với các nước fia biển Nam nên hải đảo này trở thành đặc điểm tụ hpj của thuyền buôn các nước Qua Oa, Xiêm La… song nhiều hơn cả vẫn là thuyền buôn Trung Quốc. Dưới thời Lê Thánh Tông, trong việc phòng thủ đất nước, để chống các hoạt động gián điệp của ngoại quốc, vương triều Lê đã tiến hành kiểm soát nghiêm ngặt người nước ngoài khi họ đến Đại Việt.
Ở khu vực biên giới Đông Bắc có Như Tích là đặc điểm quan trọng nhất về mặt quân sự. Như Tích ở trên núi cao, bao quanh hai bên là sông nước, khe động, thế vô cùng hiểm trở. Đây là nơi phát sinh mâu thuẫn cao nhất giữa triều Minh và triều Lê. Nhà Minh nỗ lực giành chủ quyền về mình ở đó. Song với cuộc đấu tranh kiên quyết, kéo dài thời Lê Thánh Tông, vùng Như Tích và Chiêm Lãng vẫn thuộc bản đồ Việt Nam. Tới năm 1540, dưới triều nhà Mạc, Như Tích, Chiêm Lãng cùng một số vùng khác (Cổ Sâm, Tư Lẫm, Kim Lặc, Liễu Cát) mới bị sáp nhập vào lãnh thổ Trung Quốc.
Đối với khu vực biên giới Đông Bắc - khu vực có biển Đông bao bọc, tiếp nối với các vua Trần, Lê Thánh Tông đã giành nhiều tâm trí, sức lực cho vùng xung yếu này. Qua sử biên niên và qua thơ văn Lê Thánh Tông, chúng ta biết ông từng nhiều lần thân hành đem quân đi tuần tiễu miền Hải Đông, duyệt thủy trận tại đây và làm khá nhiều thơ ghi lại những chuyến “Đông tuần” ấy.
Trong một bài thơ Lê Thánh Tông làm khi dẫn quân đi tuần thú vùng Hải Đông, ông viết:
Diểu diểu quan hà lộ kỷ thiên
Bắc phong hữu lực tống quy thuyền.
Hải sơn lsy dĩ cùng du mục
Chỉ kiến hùng hùng cắng bích thiên.
Nghĩa là:
Non sông vời vợi, con đường dài mấy nghìn dặm
Gió bắc thổi mạnh đưa thuyền trở về
Núi chạy dài dọc bờ biển, đưa mắt nhìn ra xa tít
Chỉ thấy núi non hùng vĩ vươn đến trời xanh.
Cảm hứng về sự hùng vĩ của núi sông đất nước trong thơ Lê Thánh Tông càng đẹp hơn, lớn hơn khi nhà thơ “thao bút” với tư cách là một vị hoàng đế, một vị thống soái đang mang quân đi tuần thú vùng sông biển xung yếu này:
Thiên trượng noãn quang phù vũ bái
Lục sư hỷ sắc hiệp hồ điêu.
Nhật thăng dương cốc vân dung bạc
Mục cực giang sơn vạn lý dao.
Nghĩa là:
Nắng ấm nghìn trượng tỏa trên ngọn cờ
Khí thế ba quân át cầy cáo
Phương đông mặt trời mọc, mây nhẹ trôi
Phóng mắt ngắm núi sông muôn dặm.
(Buổi sớm xuất phát từ sông Cấm đi tuần phía Đông)
Ở Lê Thánh Tông, tình cảm yêu nước, lòng tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc luôn hòa quyện với nhau. Cưỡi thuyền lướt sóng trên soogn Bạch Đằng, Lê Thánh Tông nhớ đến Trần Hưng Đạo với chiến công bình Nguyên thời Trần:
Vạn lý trường phong phiếm họa thuyền
Bạch Đằng hải khẩu thủy như thiên.
Miến hoài Hưng Đạo cần vương tích
Hốt ký Toa Đô tống tử niên
Đương nhật bất di Trần xã tắc
Nhất thời y cựu Việt sơn xuyên…
Nghĩa là:
Con thuyền như vẽ lướt gió dài muôn dặm,
Cửa biển Bạch Đằng trời nước một màu.
Nhớ mãi công Cần Vương của Hưng Đạo xưa,
Chợt nhớ năm Toa Đô nộp mạng
Ngày ấy xã tắc nhà Trần không suy chuyển,
Núi sông nước Việt một thời vẫn như xưa…
(Qua sông Bạch Đằng)
Những bài thơ Lê Thánh Tông viết trong những lần “Đông tuần” hoặc duyệt thủy trận ở khu vực này là những bài thơ cổ hay nhất viết về vùng biển Đông Bắc Tổ quốc:
Hải môn thập nhị thủy ương ương
Cực mục vân đoan lộ diểu mang
Tráng chí kinh hồn kình trúc quán
Tân xuân lộng khi dã phù dương…
Nghĩa là:
Mười hai cửa biển trời nước mênh mông
Phóng hết tầm mắt đến chân mây, đường đi vời vợi
Chí lớn kinh hồn đắp nên đài chiến thắng
Xuân mới đầy sinh khí tràn ngập khắp ruộng đồng.
Vua Lê Thánh Tông không chỉ am hiểu sâu sắc lịch sử dân tộc, tự hào về truyền thống anh hùng của cha ông, mà còn có chí lớn, làm được những việc khiến bao thế hệ sau phải ngưỡng vọng và biết ơn. Ông là vị hoàng đế đại diện kiệt xuất của dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trên đất liền cũng như trên biển cả.
(*) GS. TS Viện Sử học