Lễ phục & Quốc phục
Vào đời Trần, theo hồi ký của một sứ giả nhà Nguyên thì nam giới Đại Việt thích mặc áo “phi phong”, bịt khăn “cao sơn”. Đến đời Lê, theo Lê Quý Đôn, lễ phục vùng Thuận Hóa - Quảng Nam là những chiếc áo rộng, tay dài, bâu đứng; màu xanh, màu đen hoặc màu trắng tuỳ tiện. Như thế chiếc áo dài và chiếc khăn xếp đã có truyền thống hàng ngàn năm, tất nhiên vì đã trải qua nhiều lần cải cách y phục nên hình dáng đã biến đổi khá nhiều.
Vào năm Giáp Tý (1744) ở Nghệ An truyền ngôn câu “Bát thế hoàn Trung đô” (Đến đời thứ tám thì sẽ trở lại Trung đô) ý nói mời chúa Nguyễn Phúc Khoát (vị chúa Nguyễn đời thứ tám) sẽ ra lệnh cải cách phong tục cho khách người Ngoài. Đại khái chúa Nguyễn buộc quan dân phải ăn mặc theo sách Tam tài đồ hội. Tam tài đồ hộilà bộ bách khoa tự điển bằng tranh, xuất bản đời Minh. Thế nhưng, những quy định này chỉ tác động đến tầng lớp quan lại. Còn y phục dân gian thì vẫn giữ được truyền thống. Nếu có ảnh hưởng phong tục Trung Hoa hoặc Chiêm Thành là do tiếp cận, có chọn lọc cẩn thận.
Ở xứ Đàng Trong khi ra đường cả nam lẫn nữ đều phải mặc áo dài, chân đi giày dép, tay xách dù, đầu đội nón; đặc biệt đàn ông phải bịt khăn “cao sơn”.
Khổ vải ngày xưa rất hẹp - nữ chiếc áo dài phải may theo kiểu năm thân, vạt hò, cổ cao,có 5 nút cài một bên: Vạt hò, tức vạt trước, làm bằng 2 khổ vải. Vạt sau cũng làm bằng 2 khổ vải. Đặc biệt phía sau vạt hò có một tấm vải nhỏ, nhưng ngắn hơn, gọi là “vạt cụt”. Vạt hò, vạt cụt và cái bâu cao đã che kín phần trên của ngực, tăng thêm vẻ long trọng. Nhưng người mặc áo dài khi bước đi thì hai vạt áo và hai tay áo, nhất là tay áo rộng bay phất phới như gió thổi, nên gọi là áo “phi phong”. Cũng do khổ vải hẹp nên chiếc quần lưng vận phải may kiểu đáy lá nem, phía dưới có thêm một miếng vải hình tam giác. Giới nho sĩ ngày xưa thường mặc áo song khai. Song khai là một kiểu áo dài, bâu cao, gài nút trước ngực. Đặc biệt, vạt sau có xẻ một đường gần tới lưng. (Song khai có nghĩa mở vạt trước và vạt sau). Cũng do khổ vải hẹp nên chiếc áo song khai phải đậu sống. Nhưng song khai là kiểu áo dài “tứ thân”, thiếu sự kín đáo, nên chỉ là một loại thường phục của những người sang trọng.Lễ phục nam nữ có nhiều loại: Lễ phục của các bô lão mặc lúc tế lễ là “chiếc áo dài tay rộng, bâu cao. Loại áo này bên ngoài bằng vải “địa”, màu xanh, có dợn sóng, trên có hoa văn chữ phúc, chữ thọ; bên trong lót một lớp lụa màu đỏ hoặc màu hồng. Thế mà có người gọi loại lễ phục này là áo địa, áo cặp hoặc áo lót. Lễ phục của cô dâu và chú rể trong ngày cưới cũng là một loại áo rộng, áo cặp hoặc áo lót... nhưng thường may bằng gấm hoặc lụa. Áo lễ của chú rể thường may bằng gấm xanh, có hoa văn chữ thọ; cổ viền; bên trong lót lụa hồng, lụa đỏ. Áo lễ của cô dâu thường may bằng lụa hồng, bông nho, cổ viền; trong lót lụa xanh, lụa tía. Khi mặc áo lễ phải đi giày, dép, mặc quần thụng màu trắng. (ở Nam bộ kiêng cử, không mặc quần màu đỏ).
Đối với nam giới, chiếc áo dài phải dính liền với chiếc khắn bịt đầu màu đen. Ngày xưa đàn ông có búi tóc nên phải bịt khăn xếp. Chiếc khăn xếp của tầng lớp quan lại giàu có là một khổ lụa hoặc “bùng” “loại the sản xuất tại làng Bùng - quê hương Trạng Nguyên Phùng Khắc Khoan) rộng khoảng 0,60m dài khoảng 3m, được xếp gấp nhiều lớp theo chiều rộng, quấn đầu 7 lớp, tạo hình chữ “nhân” và nhô cao trước trán, nên gọi là “cao sơn”. Trái lại chiếc khăn xếp của người bình dân bằng vải thô; dày, nên cũng với kích cỡ đó, nhưng chỉ quấn được 5 lớp. Từ đó, trong dân gian có tiếng lóng: “Dân 5 lớp” là dân nghèo, “Dân 7 lớp” là dân sang trọng, giàu có.
Khoảng đầu thế kỷ 20, ở Nam bộ có hai nơi sản xuất khăn bịt đầu đàn ông nổi tiếng là Bến Tre và Lái Thiêu. Những người sản xuất kinh nghiệm thấy cách bịt khăn xếp tốn nhiều thời gian. Nhiều cụ già phải ngồi đợi cho hai người vấn khăn. Từ đó họ chế chiếc khăn đóng, tức đóng sẵn một chiếc khăn, tạo hình chữ nhân, chỉ cần đặt lên đầu, quấn thêm vài vòng là hoàn tất. Tại Lái Thiêu, vào khoảng năm 1920 có ông Nguyễn Văn Bút là người làm khăn khéo léo. Đến năm 1920 ông dời cơ sở sản xuất khăn đóng xuống Cầu Bông (Bà Chiểu). Từ đó “khăn đóng suối Đờn” trở thành thương hiệu nổi tiếng.
Khoảng năm 1910 - 1930, nhiều người trong giới đàn ông Nam bộ theo trào lưu mới cắt tóc ngắn nhưng vào dịp lễ tết họ vẫn mặc quốc phục. Do đó, những người sản xuất khăn đóng phải bày ra loại khăn chụp. Khăn chụp cũng làm bằng lụa đen, đóng sẵn, hình dáng giống như một cái nón.
Đặc điểm chung của lễ phục là dài rộng, kín đáo, sạch sẽ, thể hiện sự nghiêm trang và thành kính. Dần dần, yếu tố gọn gàng được mọi người ưa thích, nên chiếc áo dài tay hẹp đã thay thế chiếc áo dài tay rộng. Có thể nói lễ phục truyền thống theo thiết kế hiện nay đã đạt được tính mỹ thuật hiện đại. Phải chăng bây giờ là lúc chúng ta cần phải mặc lễ phục dân tộc để dâng hương lên bàn thờ Tổ tiên vào những ngày lễ trọng đại.
Nguồn: Tạp chí Xưa và Nay, số 256, tháng 3/2006, trang 19