Kinh nghiệm Hàn Quốc: Năng lượng hạt nhân và sự chấp nhận của quần chúng
Năng lượng hạt nhân là một tất yếu lịch sử
Tagore - Nhà thơ Ấn Độ vĩ đại đã ca ngợi Hàn Quốc như “mảnh đất của bình minh êm ả” (Land of the morning calm). Là một đất nước có nhiều cảnh đẹp hiền hoà và một di sản văn hoá 5000 năm vô cùng phong phú, nhưng Hàn Quốc lại nghèo về tài nguyên năng lượng thiên nhiên. Dưới lòng đất chỉ có một trữ lượng than ít ỏi với chất lượng kém. Còn mỗi giọt dầu đều phải nhập ngoại.
Hơn nữa, do vị trí địa lý, chính trị của mình, Hàn Quốc đã trải qua một quá khứ nhiều đau khổ dưới sự áp bức của những nước láng giềng hùng mạnh. Lịch sử sóng gió cùng với sự nghèo nàn về tài nguyên đã được phản ánh trong sự phát triển kinh tế lạc hậu của đất nước trong suốt một thời gian dài. Song, từ đầu những năm 1960, chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện có kết quả một loạt các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm nhằm mục tiêu làm cho đất nước ngày một phồn thịnh. Hàn Quốc đã trở thành một nước công nghiệp với thu nhập bình quân đầu người hàng năm hơn 10.000 USD.
Sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ ở Hàn Quốc trong bốn thập kỷ qua đã làm gia tăng nhanh chóng nhu cầu sử dụng điện năng trên dưới 10% mỗi năm. Từ cuối những năm 1970, điện hạt nhân đã giữ vai trò then chốt trong việc đáp ứng nhu cầu đó. Đối với Hàn Quốc, điện hạt nhân không chỉ là một giải pháp mà còn là một tất yếu, một ưu tiên có tính chiến lược của quốc gia (national strategic priority).
Năng lượng hạt nhân - chính sách và thực tiễn
Các hoạt động hạt nhân được khởi động từ năm 1957, khi Hàn Quốc trở thành một trong những thành viên sáng lập của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA). Năm 1958 Luật năng lượng nguyên tử được thông qua. Năm 1959 chính phủ Hàn Quốc thành lập Cục năng lượng nguyên tử (OAE). Năm 1996 Luật Năng lượng nguyên tử được sửa đổi. Theo Luật này, Uỷ ban Năng lượng nguyên tử (AEC) là cơ quan hoạch định chính sách năng lượng hạt nhân cao nhất, do Thủ tướng đích thân lãnh đạo. Bộ Khoa học và công nghệ (MOST) chịu trách nhiệm quản lý hoạt động nghiên cứu triển khai, an toàn và bảo đảm hạt nhân (safeguads). Bộ trưởng Khoa học và công nghệ đồng thời là Chủ tịch Ủy ban An toàn hạt nhân (NSC), cơ quan chịu trách nhiệm về an toàn hạt nhân, hoạt động độc lập với AEC và được tổ chức theo mô hình của Uỷ ban Quản lý hạt nhân Hoa Kỳ (US NRC).
Năm 1962, Hàn Quốc vận hành lò phản ứng nghiên cứu đầu tiên (Trước lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt của nước ta một năm). Tháng 4-1978, KORI-1 - tổ máy phát điện hạt nhân đầu tiên với công suất gần 600 nghìn kw đã gia nhập lưới điện thương mại. Từ đó đến nay, chương trình năng lượng hạt nhân quốc gia không ngừng phát triển. Được xem xét trên cơ sở bảo đảm an ninh năng lượng và giảm thiểu sự phụ thuộc vào nhập khẩu năng lượng, chính sách năng lượng của Hàn Quốc thường xuyên xem năng lượng là một nguồn sản xuất điện năng chủ yếu.
Đến cuối năm 2004, 20 tổ máy phát điện hạt nhân với tổng công suất gần 17 triệu kw đã sản xuất được 124 tỷ kwh điện. Mặc dù chỉ chếim 20% tổng công suất các nhà máy điện, điện hạt nhân đã cung cấp 40% tổng sản lượng điện. Hàn Quốc được xếp vào nhóm các nước có hệ số có công suất cao nhất trong số 30 nước có nhà máy điện hạt nhân trên thế giới, đồng thời lại đạt được tần số sự cố rất thấp. Hàn Quốc đang tiếp tục xây dựng thêm 8 tổ máy với công suất 9,2 triệu kw. Những con số trên đã phần nào chứng minh cho sự thành công của chương trình năng lượng hạt nhân tại Hàn Quốc.
Hàn Quốc đã nỗ lực tăng cường tự lực cánh sinh trong kỹ thuật và công nghệ hạt nhân. Nếu như 3 tổ máy đầu tiên (hai Westinghouse của Hoa Kỳ và một Candu của Canada) được xây dựng theo phương thức chìa khoá trao tay từ phía người bán nước ngoài, thì trong việc xây dựng 6 tổ máy tiếp theo đã có sự tham gia của các chuyên gia và công nhân Hàn Quốc. Đến năm 1987, khi xây dựng các tổ máy thứ 11 và 12 (Young Gwang Units 3 và 4) thì các công ty Hàn Quốc là nhà thầu chính, còn các nhà cung cấp nước ngoài trở thành nhà thầu phụ (sub-contrator). Trong khuôn khổ một chương trình được kế hoạch hoá chặt chẽ, chính phủ đã quyết định phân công trách nhiệm cụ thể cho các tổ chức chuyên môn, doanh nghiệp như: Viện nghiên cứu năng lượng nguyên tử Hàn Quốc (KAERI) thiết kế hệ thống cấp nước, Công ty Xây dựng công trình năng lượng Hàn Quốc (KORES) phụ trách kiến trúc công trình, công ty xây dựng và công nghiệp nặng Hàn Quốc (KHIC) chế tạo lò phản ứng và tuabin... Từ chỗ phải nhập khẩu lò phản ứng và công nghệ của Hoa Kỳ, Canada và Pháp, Hàn Quốc đã có thể tự lực giải quyết được hầu hết các khía cạnh kỹ thuật của một nhà máy điện hạt nhân và đang chuẩn bị chế tạo lò phản ứng Korean APR-1400 (Advanced Pressurize Reactor - Lò áp lực cải tiến) với công suất 1,4 triệu kw.
Bộ Khoa học và công nghệ Hàn Quốc đã xây dựng kế hoạch tổng thể phát triển năng lượng hạt nhân lần thứ 3 (giai đoạn 2007-2011), phấn đấu đưa Hàn Quốc trở thành một trong năm nước dẫn đầu thế giới về công nghiệp hạt nhân; với mục tiêu dài hạn là đến năm 2035 điện hạt nhân sẽ cung cấp 60% sản lượng điện.
Năng lượng hạt nhân và sự chấp nhận của quần chúng.
Cùng với những biến đổi chính trị xã hội, mối quan tâm của quần chúng Hàn Quốc đối với năng lượng hạt nhân ngày càng tăng; bên cạnh đó là sự phát triển của phong trào chống hạt nhân từ các nhóm bảo vệ môi trường. Đa số người dân đã nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển năng lượng hạt nhân, nhưng các cuộc biểu tình ở địa phương cùng với sự hoài nghi và chỉ trích về an toàn hạt nhân cũng gia tăng. Nhằm đối phó hữu hiệu với thách thức này, chính phủ Hàn Quốc đặc biệt coi trọng công tác vận động quần chúng chấp nhận năng lượng hạt nhân thông qua việc phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức có hoạt động liên quan đến hạt nhân như Tổng công ty điện lực Hàn Quốc (KEPCO), Diễn đàn Công nghiệp nguyên tử Hàn Quốc (KAIF)...
Tháng 3/1986, tiểu ban về sự chấp nhận của quần chúng (Public Acceptance Committee) trực thuộc KAIF được thành lập, gồm các chuyên gia của chính phủ và ngành công nghiệp hạt nhân hoạt động trong lĩnh vực vận động sự chấp nhận của quần chúng. KAIF tiếp tục củng cố vai trò của mình bằng việc thành lập một cơ quan vận động quần chúng mới vào năm 1987, sau khi xảy ra thảm hoạ hạt nhân Chernobyl. Trong khi đó, KEPCO thành lập cơ quan an toàn hạt nhân và đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động củng cố và tăng cường sự chấp nhận của quần chúng. Mục đích cuối cùng của các hoạt động này là thuyết phục được quần chúng chấp nhận năng lượng hạt nhân trên phạm vi toàn quốc, tiến tới một nền văn hoá hạt nhân lành mạnh (soud nuclear culture).
Xuất phát từ việc không dễ gì thuyết phục các nhóm chống đối thấy được lợi ích của năng lượng hạt nhân, công tác vận động chú trọng vào đối tượng là toàn thể người dân nói chung, những người có quyền lựa chọn cuối cùng, đặc biệt là giới nhà báo, nhà giáo, thầy thuốc là những người thường tiếp xúc và có ảnh hưởng đối với công chúng. Hàn Quốc đã thực hiện mọi biện pháp có thể để khôi phục niềm tin và củng cố sự chấp nhận của người dân về sự cần thiết và tính an toàn của các nhà máy điện hạt nhân: xuất bản các sách giới thiệu, tờ rơi; sản xuất băng đĩa hình; sử dụng báo chí và truyền hình giúp công chúng tiếp cận thông tin và hướng dẫn sự kiểm soát của họ đối với các nhà máy điện hạt nhân; tổ chức diễn thuyết, giới thiệu, tranh luận, diễn đàn công khai; tổ chức cho người dân tham quan nhà máy điện hạt nhân.
Từ năm 1989, nhà nước Hàn Quốc đã ban hành Luật Giúp đỡ nhân dân các vùng xung quanh nhà máy điện. Luật này đã tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển các cộng đồng dân cư xung quanh nhà máy điện hạt nhân và tạo điều kiện cho việc xây dựng và quản lý hoạt động của nhà máy điện hạt nhân. Một số phần trăm trong doanh thu điện năng đã được dành vào việc cải thiện và mở mang phúc lợi cho các cộng đồng này. Các dự án nhằm nâng cao thu nhập của nhân dân địa phương, cải thiện các công trình công cộng, tạo ra một môi trường tốt hơn cho các cộng đồng dân cư xung quanh nhà máy điện hạt nhân sẽ được triển khai tích cực hơn.
Nguồn: Thông tin và phát triển,, số 2, tháng 8/2006, tr 39 - 41








