Kiến trúc nông thôn: SOS hay là “Giấc mộng kê vàng”
“Áo xông hương của chàng vắt mắc
Đêm nằm em đắp lấy hơi
Gửi khăn gửi túi gửi lời
Gửi đôi chàng mạng cho người đường xa”
(Ca dao)
Một ngày mệt mỏi với thành phố ồn ào, ta quay về căn nhà gỗ ở làng xưa, ngủ một giấc ngon lành. Không khí ấm áp. Gió lùa nhẹ qua cửa liếp, rít một hơi thuốc lào, chùi chân vào chổi rơm, rồi ngả mình trên chõng tre vàng óng. Sớm dậy đẩy cửa sổ nhìn ra vườn sau, cành bưởi, cành na vươn vào tận chấn song, văng vẳng đâu đây tiếng chim hót... Cảnh tượng rất đỗi bình dị này ngày nay không dễ làm được, ai cũng muốn, nhưng tất cả đã sẵn sàng vứt bỏ nó lấy một đường làng bụi bặm, một căn nhà bê tông dài ngoẵng như cái hang và lòe loẹt. Nếu chỉ nói rằng, người nông dân thật dại dột, đã đổi đẹp lấy xấu, đổi một nền kiến trúc truyền thống vô cùng trong lành và chân thiện mỹ lấy một thứ đô thị hóa tồi tàn, thì cũng võ đoán. Sự chuyển đổi từ truyền thống sang hiện tại là một áp lực xã hội, không thay đổi không được, vấn đề là xã hội không tạo ra một quy hoạch hệ thống và phương án tốt cho làng xã, buộc nó phải chọn một cách tự phát những gì tồi tàn nhất nhưng phù hợp nhất với khả năng thu nhập và mưu sinh hàng ngày.
Làng cổ hình thành trên những dải và gò đất nổi ở đồng bằng Bắc Bộ, ven sông Hồng, sông Thái Bình, sông Cầu, sông Thương, sông Đáy... và những chi lưu của nó. Đê trở thành đường giao thông liên huyện và liên tỉnh, đường sông đóng vai trò chính trong vận chuyển hàng hóa và nối các làng theo các triền sông từ các tỉnh lộ khác nhau, lấy Thăng Long làm trung tâm. Giữa vài làng lại có một khoảng đất công làm chợ, phân cấp từ chợ hàng tổng, chợ hàng huyện, rồi chợ hàng tỉnh, còn Thăng Long, Phố Hiến chính là chợ quốc gia. Tất cả các làng, do truyền thống định cư nhiều giặc giã, binh hỏa, đều mang tính chất phòng thủ. Thần Thành hoàng, mang ý nghĩa đó trong đó "Thành" có nghĩa là tường thành, "hoàng" là cái hào nước, tức là vị thần đất và nước bảo hộ cho cái thành phong kiến và cái làng dân dã. Xung quanh làng người ta thường đắp thành gờ đất và trồng những lũy tre dầy đặc. Khả năng phòng thủ của lũy tre trong chiến tranh bộ binh cũng rất cao, đồng thời người dân cũng có thể mở nhiều lối đi ra đồng, thuận tiện hơn xây tường, do đó cổng làng hoàn toàn mang tính tượng trưng, rằng đây là địa giới của một miền đất văn hiến. Giao thông trong làng có những đường chính dẫn đến ngôi đình trung tâm và phân cắt các giáp theo bốn hướng Đông - Đoài - Nam - Bắc. Mỗi giáp đều có miếu thờ. Vào hội làng, người ta tế lễ từ miếu giáp trước rồi mới nhập đình. Những làng phát triển thủ công thường giầu có và quy hoạch gần như thành phố (như làng Trang Liệt, Đình Bảng, Phù Lưu), có đường cái xuyên làng, có cống thoát nước, các ngõ xóm tỏa ra như chân rết, còn đình-đền-chùa được dồn về một khu trung tâm, chợ làng và Nghè dậy học cũng liền luôn khu này. Tất nhiên quy hoạch làng không cứng nhắc và không theo một lối nhất định, mà tùy theo kiến trúc phong thủy, trong đó cái đẹp và sự thuận tiện sinh hoạt luôn cố gắng hợp thể, vì thế mà đại bộ phận các làng xã cổ truyền Bắc bộ đều chọn được sự phức hợp tốt nhất cho các kiến trúc tôn giáo và dân sinh.
Sự tôn trọng pháp luật và hương ước là yếu tố quyết định cho làng xã cổ ổn định trong gần nghìn năm qua, trong đó sự tăng trưởng dân số chậm và đạo đức phong kiến được đặt làm cội rễ. Ngược lại sự tăng nhanh dân số và thiếu tôn trọng pháp luật ở cả chính quyền địa phương lẫn người nông dân làm biến dạng hoàn toàn kiến trúc làng xã cổ truyền, trong đó luật phong kiến về công điền, công thổ, tư điền, tư thổ được thay thế bởi chế độ công hữu và ruộng đất mới, và từ sau Đổi mới sự quản lý yếu kém và phức tạp làm cho tình trạng lấn chiếm đất đai ở nông thôn nan giải vô cùng.
Tình trạng này làm cho kiến trúc cổ truyền biến đổi không có quy hoạch tích cực, phá vỡ cấu trúc vật chất xã hội ở nông thôn theo chiều hướng trưởng giả và kinh doanh chụp giật. Từ chi tiết đến tổng thể, từ từng ngôi nhà đến cả làng, những nét đẹp đẽ và tinh túy của văn minh vật chất truyền thống biến mất, thay thế bằng một thứ lai căng, lòe loẹt, với sự cực đoan cá nhân mà phi cá tính đến lạ lùng.
Trước hết, tất cả các dải đất công ven làng, quanh làng đều được thị trấn hóa mau lẹ. Đất ruộng được đổ đất dần biến thành đất thổ cư, nếu có bán thì giá đắt hơn, và ruộng ven đường phần thì bán cho các doanh nghiệp, phần thì bán cho nông dân xây nhà. Ngôi làng phình ra tứ phía, trên các con đường chia đều mặt tiền chừng 4-8m (hoặc hơn) ; còn chiều sâu thì tùy địa hình từ 10 - 20m (hoặc hơn). Các ngôi nhà bê tông xây theo chiều sâu chữ nhật đó giống nhau về kết cấu hình hộp và khác nhau về màu sắc, kiểu mái vô lối, là một phong cách tràn lan trong cả nước. Làng cổ lọt thỏm trong làng mới, không kịp cải tạo cống và đường điện cho hiện đại, mà chỉ thích hợp từng đoạn đường, từng không gian xé lẻ, ... các ngôi nhà cổ được tháo dỡ dần dần, thay thế bằng những ngôi nhà bê tông có mặt bằng hình thước thợ.
Đường làng cổ xây bằng gạch xếp dọc từ công quỹ làng và từ cặp vợ chồng mới cưới phải đóng góp cho làng 10m đường. Đường gạch rộng chừng 1m, hai bên rộng ra chừng 0,5m. Như vậy chiều rộng đường làng cổ chừng 2m, chỉ phù hợp với đi bộ, xe đạp, và xe cải tiến kéo tay. Bê tông hóa đường làng là một bước tiến ở nông thôn, nhưng ở đoạn đường liên xã, liên huyện chất lượng không tốt lắm, thường xuyên bị xe công nông, xe tải cầy xới nên rất chóng hỏng. Vào mùa khô rất bụi, vào mùa mưa lớp bụi đó trở thành lớp bùn nhão lầy lội vô cùng. Các nguồn nước bề mặt ô nhiễm nặng nề do mọi nguồn hóa chất đổ xuống từ xí nghiệp lân cận và thuốc hóa học dùng trong nông nghiệp, khiến nguồn nước sinh hoạt ngày càng trở nên nan giải ở nông thôn. Khoan nước ngầm trở nên phổ biến, nhưng bây giờ nước ngầm cũng rất bẩn. Rác là nguồn ô nhiễm khác, nếu như thời cổ nó là chất đốt, thì giờ đây phủ lên nhiều cánh đồng giữa các làng các bãi thải ô nhiễm, còn ni lông thì tràn ngập làng xóm, khiến làng thị trấn hóa, chứ chưa được đô thị hóa, nông dân biến thành thị dân một cách bất đắc dĩ. Thất nghiệp và tệ nạn. Nói tóm lại, yếu tố cảnh quan thẩm mỹ môi sinh hoàn toàn không được tính đến trong kiến trúc nông thôn hiện tại. Nghèo thì giữ được lối cổ, giầu thì cái đẹp biến mất, đó là mâu thuẫn lạ lùng ở nông thôn. Ngày nay, kiến trúc sư không đóng một vai trò gì ở nông thôn. Thợ xây dựng tứ chiếng và một ông chủ nhà 30-40 tuổi, trình độ văn hóa sơ sài tạo ra các công trình nông thôn, từ ngôi nhà ủy ban, nhà trẻ, nhà văn hóa, đến nhà ở dân sự.
Làng cổ lọt thỏm vào làng mới, nhưng về cấu trúc cơ bản vẫn giữ nguyên. Lũy tre không đóng vai trò tường bao và bảo vệ nữa, người ta xẻ ra tất cả các hướng để đi ra khỏi làng thuận tiện và ở những nút ra luôn hình thành các cửa hàng. Đường đi trong làng được đổ bê tông với chiều rộng đủ cho chiếc xe công nông chạy, tức là khoảng 2,5m. Các phân khu gia đình được chia nhỏ hơn. Do sự phình ra của gia đình mới từ đại gia đình cũ mà càng đông con đất và ruộng càng chia nhỏ, tuy người ta vẫn cố gắng hướng mặt nhà về phía đông nam. Trước hết các tường bao truyền thống bằng đá ong, đất nện được phá bỏ dần thay bằng tường gạch con kiến. Cổng nhà theo lối cổ có mái, cổng đắp hoa văn, vòm cuốn và câu đối cũng biến mất dần, thay thế bằng một chiếc cổng chữ nhật cửa sắt hàn. Căn nhà mới không chú trọng đến hàng hiên và dại cửa nữa. Nó cần tạo ra vài buồng ở tầng một: buồng khách có ban thờ (không cần là trung tâm như nhà vì kèo), buồng xép và buồng ăn thông liền với bếp và buồng tắm-vệ sinh. Tầng hai thường chỉ có hai buồng, để rộng, ít khi sử dụng. Nếu như căn nhà cổ chỉ có hai buồng chái, thường làm kho và chỉ đủ cho một cặp vợ chồng trẻ ở chung với bố mẹ, thì căn nhà mới, sinh hoạt riêng tư của thành niên có thể tốt hơn. Sàn lát đá hoa Trung Quốc rất trơn và bóng, không có khả năng chống ẩm vào mùa nồm còn mặt tiền vẫn có sân nhỏ và toàn bên ngoài ngôi nhà được sơn vẽ tương tự như tranh “bờ hồ”. Nếu nhà cao tầng hơn, người ta thường xây khu cầu thang lên cao thành khối chóp, trên đó có thể là điện thờ, lầu hóng gió hình củ hành như tháp Hồi giáo, hình tam giác như nhà thờ, hoặc nhiều hình thù kì dị học được từ trên tỉnh. Nhiều người phương Tây lại rất thích thú với kiến trúc dân sự Việt Nam vì nó rất Popart, rất đa phong cách, đa cá tính, lộn xộn và vô chính phủ - đấy là một thứ tự do hoàn hảo và hài hước, nhổ toẹt vào mọi học thuyết kiến trúc. Cái này rất gần với nghệ thuật Đada và Hậu Hiện đại (Dadaism và Post Modern Art), y như Duchamp đem cái bồn vệ sinh đến triển lãm nghệ thuật, trưng bày như một tác phẩm. Người Tây thì chán lè một thứ hình khối chuẩn mực, kiến trúc Hy-La hay Gotic và các triết thuyết dù là rất tiền phong với công nghệ hiện đại. Còn người ta thì thèm khát sang giầu và phô trương sang giầu, giống như kẻ nghèo khó nay có tiền bèn đeo đồng hồ mạ vàng, nhẫn, vòng xuyến, điện thoại di động đắt tiền và áo hở ngực khêu gợi. Nếu ta vào bất kỳ căn nhà thị trấn huyện thì đều thấy một ước vọng chung. Ban thờ hương án rất to, hoành phi câu đối vàng son (rởm) rực rỡ, lục bình sứ hoặc gỗ khảm cao tới 2m , lư hương đồng to như cột đình, và bộ xa lông, bình tượng gỗ Đồng Kỵ chạm khắc ghê người có thể ngồi lọt thỏm tới hai người béo. Những loại bàn ghế chạm khắc kinh hồn này, được bọc nhung đỏ, xanh ở phần đệm cũng phổ biến ở mọi cơ quan từ địa phương đến thành phố. Ngồi vào đó ai cũng cảm thấy mình là vua quan, rất oai, rất có thế lực, bên cạnh những đồ điện tử rất hiện đại nhấp nháy và thỉnh thoảng reo lên để chào mừng sự tiến tài tiến lộc. Nhà văn Châu Diên thỉnh thoảng than rằng: “Dân tộc này tan mất rồi”, đó là một khái cảm hơi bi quan, nhưng tôi cũng nghĩ rằng: “Người Việt mình đã thay đổi hoàn toàn, trong đó những tính cách xấu đang được khuyếch đại”.
Việc không có quyền lực kiến trúc và thỏa hiệp với các chủ đầu tư, khiến giới kiến trúc sư không đóng vai trò gì trong kiến trúc Việt Nam hiện đại. ở khu vực nông thôn cũng vậy, người ta không cần đến kiến trúc sư, mà để cho sự thay đổi của kết cấu làng phụ thuộc vào cơ chế hành chính địa phương phức tạp và tư lợi triệt để hay công hữu. Những nét tinh túy của kiến trúc truyền thống không được phân tích, giảng giải cho người dân, những cái hay cái dở của kết cấu vật liệu hiện đại cũng không được chỉ dẫn ảnh hưởng thế nào đến sinh hoạt và thẩm mỹ. Đá ong, tường trình, vách đất đan dứng, gạch vồ, gạch Bát Tràng, vôi ta, gỗ, đá và tre đều là những vật liệu tốt nhất trong xây dựng, ở cả nghĩa xây dựng nhân cách và sức khỏe, chống ẩm, chống thấm, tạo không khí trong lành, môi trường đạo đức nông nghiệp. Nhưng trong một ngôi nhà hiện đại, vật liệu cổ phải được sử dụng như thế nào, xây hai ba tầng thế nào, không ai chỉ bảo cho nông dân. Đưa nhà vệ sinh kiêm buồng tắm tự hoại vào không gian kiến trúc vì kèo thế nào, làm sao chống thấm và vật liệu bê tông mái bằng thế nào, người nông dân không biết. Ví dụ nhà bê tông mái bằng khi nắng hấp thụ nhiệt, gặp cơn mưa lạnh (thường xuyên trong mùa hè) co lại đột ngột, sinh ra rạn nứt, khiến nhiều nhà bê tông nông thôn luôn dột thấm và rất nóng lúc ban trưa. Vôi sơn không thích hợp với không khí ẩm, rất chóng lở loét và tóm lại cả ngôi nhà không thở (như vật liệu cổ), không tốt chút nào cho sức khỏe. Tính tự do cá nhân, hạn chế bớt sự khắc khổ của lối sống phong kiến là ưu điểm của lối sống hiện đại, nhưng phát triển đến đâu là chừng mực, đi quá đi trở thành trưởng giả và kệch cỡm v.v và v.v... Nói tóm lại là không ai hướng dẫn người nông dân xây ngôi nhà hiện đại cả và sự tự lựa chọn của họ thật tồi tàn, thảm hại, dù tốn kém rất nhiều tiền.
Do mong muốn hiện đại hóa mau chóng, mà người nông dân ít tiền phải chấp nhận những sản phẩm cấp thấp. Xe máy Tàu, xe công nông tự tạo, gạch men đá hoa rẻ tiền, xi măng kém chất lượng, sắt thép đúc kém, ngói nung non và méo mó, dây điện chịu tải kém, bồn vệ sinh xộc xệch... lắp ghép lại họ cũng được một ngôi nhà trông tươm tươm, cũng bằng chị bằng em, nhưng chất lượng sống rất thấp và phải liên tục xây sửa trong nhiều năm cư trú, nếu mong không có cơn bão lớn nào.
Truyền thống và cái cũ bị phá vỡ, nhưng cái mới chưa hình thành, hoặc hình thành theo chiều hướng tụt hậu, đã giảm thiểu công năng kiến trúc, nói lên sự thất bại của chủ nghĩa thực dụng nông dân. Chủ nghĩa này đang cố gắng san phẳng khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, bằng hai con đường đô thị hóa nông thôn và nông thôn hóa thành thị, trong khi khoảng cách giầu nghèo gia tăng, cái hố bất bình đẳng này có nguy cơ ngày càng mở rộng. Các áp lực xã hội làng xã sẽ được giải tỏa, trong đó dư luận xã hội (làng xã) là cái người nông dân khiếp sợ nhất, nếu họ vượt qua được, họ có khả năng làm bất cứ điều gì, mà không phải e dè. Điều đó giải thích tình trạng lấn chiếm ruộng đất, vi phạm dân chủ, gây ra nhiều tệ nạn xã hội ở nông thôn, nạn mãi dâm, buôn lậu và tự do tranh đoạt, nghĩa là không ngượng ngùng nữa, đình chùa miếu mạo, tổ tông không linh thiêng nữa, thì chỉ có ăn hút và đập phá. Cũng may thay vai trò của gia đình, người già và các tổ chức xã hội đoàn thể nông thôn đã ổn định lại và hạn chế những tiêu cực xã hội. Điều đó cho thấy, ngôi nhà không phải chỉ là bốn bức tường, mà là một tổ ấm, nơi đào luyện nhân cách, là quê hương, cố hương, cố nhân và cố tri, nếu như ta nghĩ lại, xây dựng lại, dù từng phần, từng con đường, từng xóm ngõ vẫn còn kịp. ở đây chế độ và sở hữu ruộng đất cần xác định minh bạch, kiến trúc sư của vùng miền có vai trò quyết định bộ mặt nông thôn và tư vấn xây dựng cho người nông dân, giáo dục tinh thần công dân và quan hệ bình đẳng trước luật pháp thay thế cho dư luận xã hội theo tập tục. Đó là một suy nghĩ cho việc lấy lại vẻ đẹp của nông thôn xưa phù hợp với sự phát triển hiện tại, để làng xã Việt Nam khỏi biến vào giấc mộng kê vàng mãi mãi.
Mùa thu 2006
Nguồn: Tạp chí kiến trúc 12/2006








