Kiểm toán chất thải - Kinh nghiệm quốc tế và giải pháp áp dụng tại Việt Nam
Kiểm toán chất thải ở một số nước trên thế giới.
Từ năm 1980, trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu và ứng dụng về KTCT. Quy trình KTCT đối với từng ngành đã được lập, nhiều tài liệu, sách về KTCT đã được xuất bản.
Ở Úc, KTCT trong các ngành công nghiệp đã được giới thiệu như là một công cụ hỗ trợ cho việc quản lý chất thải, bên cạnh các công cụ khác như sản xuất sạch hơn và đánh giá vòng đời sản phẩm. Cục Các ngành công nghiệp cơ bản, Công viên, Nước và Môi trường của bang Tasmania (Úc) đã khuyến cáo các doanh nghiệp nên sử dụng KTCT. Nội dung của KTCT được chỉ rõ như: Xác định các nguồn thải, số lượng và các loại chất thải được tạo ra; xác định nguyên nhân làm gia tăng chất thải; tại công đoạn sản xuất nào và tăng lên như thế nào, từ đó thiết lập các mục tiểu, giải pháp và thứ tự ưu tiên cho việc giảm phát sinh chất thải.
Một số ngành công nghiệp đặc thù gây tổn hại tới môi trường như khai thác mỏ, sản xuất hóa chất thì được khuyến khích tuân thủ theo các Quy chế về Thực hành quản lý môi trường tốt nhất (BPEM), được chính quyền Úc thiết kế riêng cho mỗi ngành. Ví dụ, đối với ngành khai thác mỏ đã được Cục BVMT Úc ban hành năm 1995 và tất cả các mỏ khai thác đều được khuyến khích thực hiện quy chế này, trong đó bao gồm cả quy định về KTCT và nộp báo cáo kiểm toán hàng năm.
Bỉ, là thành viên của Cộng đồng Châu Âu (EU), nên phải tuân theo những quy định về môi trường do EU ban hành, trong đó có Quy trình kiểm toán quản lý sinh thái (EMAS), năm 2001. Đến năm 2004, đã có 150 doanh nghiệp ở các tỉnh thuộc vùng Flanders của Bỉ tham gia thực hiện EMAS và sau đó là 22 doanh nghiệp khác. Đặc biệt, nhiều doanh nghiệp tự nguyện áp dụng các quy trình này không chỉ với mục đích nhằm đạt được các chứng chỉ môi trường. Một trong những công ty đầu tiên của Bỉ thực hiện KTCT là công ty Shred - it Belgium. Năm 2007, Công ty này đã tái chế 1.650 tấn chất thải và đã thực hiện tính toán “Dấu chân Carbon”, thực hiện giảm lượng carbon từ hoạt động vận tải, trở thành công ty đầu tiên của Bỉ đạt CO 2trung tính.
Tại Canada, theo quy định Ontario 102/94 của Bộ Môi trường và Năng lượng (Canada), các cơ sở sản xuất bắt buộc thực hiện KTCT. Quy định này cũng nêu rõ các cơ sở giáo dục, bệnh viện, nhà nghỉ, khách sạn, cơ sở sản xuất, các tòa nhà công sở, nhà hàng và các cơ sở kinh doanh phải thực hiện chương trình giảm thiểu chất thải, bao gồm 4 bước trong đó có bước thực hiện KTCT. Thời gian một báo cáo KTCT phải được lưu trữ dưới dạng file ít nhất 5 năm và KTCT phải chỉ ra được loại vật liệu hoặc sản phẩm nào được doanh nghiệp sử dụng là vật liệu hoặc sản phẩm tái chế. Trong đó, Canada rất chú trọng tới việc xem xét quy trình sản xuất của doanh nghiệp như là một thông tin đầu vào để thực hiện kiểm toán, từ đó đề xuất các khâu giảm thiểu chất thải cũng như nguyên liệu sản xuất.
Ở Ấn Độ, khái niệm KTMT trong ngành công nghiệp chính thức được giới thiệu từ tháng 3/1992 với mục đích chung là giảm sự lãng phí tài nguyên và thúc đẩy sử dụng công nghệ sạch nhằm giảm thiểu chất thải. Bộ Môi trường và Rừng (Ấn Độ) đã ban hành thông tư số GSR 329(E) vào tháng 3/1992, đưa ra yêu cầu bắt buộc nộp Báo cáo KTMT hàng năm đối với các cơ sở công nghiệp, trong đó phải thể hiện các thông tin về quản lý từng nguồn thải. Để thúc đẩy hoạt động KTMT, Ban Kiểm soát ô nhiễm quốc gia (CPCB) đã tổ chức các mô hình trình diễn và xây dựng hướng dẫn KTMT cho các ngành công nghiệp ô nhiễm cao như thuốc bảo vệ thực vật, giấy và bột giấy, đồ uống, dệt nhuộm.
Đối với Thái Lan, hoạt động KTCT đã nhận được sự quan tâm của nhiều tổ chức và doanh nghiệp. Viện Công nghệ Châu Á (AIT) đã đưa nội dung này vào đào tạo từ những năm đầu thập kỷ 90. Các dự án KTCT cũng được thực hiện ở nhiều nhà máy công nghiệp thuộc các lĩnh vực khác nhau như sản xuất bánh kẹo, tinh bột, cao su…
Ở Singapore, KTCT được cụ thể hóa như là một chiến lược tối thiểu hóa phát sinh chất thải, bao gồm 8 bước: Cam kết của lãnh đạo; lựa chọn nhóm, bộ phận làm việc về tối thiểu hóa phát sinh chất thải; thực hiện kiểm toán chất thải; xác định chi phí của việc giảm phát sinh chất thải; phát triển, xây dựng các phương án giảm thiểu chất thải; đánh giá khả năng tiết kiệm và sắp xếp ưu tiên các lựa chọn, giải pháp; xây dựng kế hoạch giảm thiểu chất thải; thực thi và cải tiến kế hoạch.
Ở Trung Quốc, Nhật Bản, và nhiều nước khác, các hoạt động KTCT được lồng ghép trong các công cụ kiểm soát và giảm thiểu ô nhiễm như sản xuất sạch hơn, KTMT, đánh giá vòng đời sản phẩm. Mục tiêu chính của các công cụ này là nhằm hướng đến giảm thiểu phát sinh, kiểm soát ô nhiễm do chất thải gây ra.
Nghiên cứu và áp dụng kiểm toán chất thải ở Việt Nam
Ở nước ta hiện nay, KTMT và KTCT đã được đưa vào giảng dạy ở một số trường đại học và cao đẳng trong cả nước, song chưa nhiều và mới chỉ dừng ở các vấn đề tổng quát mà chưa đi sâu và các lĩnh vực cụ thể.
Việc áp dụng KTCT trong các cơ sở sản xuất cũng mới dừng ở một số dự án thí điểm như Dự án “Kiểm soát ô nhiễm môi trường” của UNDP, năm 1995 ở một số nhà máy tại Việt Trì và Biên Hòa; đề tài “Điều tra, đánh giá đề xuất việc KTCT công nghiệp tại 05 khu công nghiệp, khu chế xuất năm 2005 của Cục BVMT (nay là Tổng cục Môi trường); đề tài “Nghiên cứu áp dụng KTCT trong công nghiệp quốc phòng” của Trung tâm Khoa học, Kỹ thuật và Công nghệ Quân sự (Bộ Quốc Phòng) năm 2004; đề tài “KTCT tại các làng nghề tái chế kim loại và đề xuất một số biện pháp giảm thiểu ô nhiễm” của Viện Khoa học Công nghệ Môi trường - Đại học Bách Khoa Hà Nội năm 2005; Nghiên cứu và áp dụng thí điểm về KTCT cho Nhà máy giày Thượng ĐÌnh, Hà Nội và Công ty TNHH Thuộc da Đông Hải do Tổng cục Môi trường thực hiện năm 2008.
Nguyên nhân của tình trạng số lượng doanh nghiệp áp dụng KTCT cũng như sản xuất sạch hơn (ISO 14000) còn thấp là do Nhà nước chưa có những chính sách cụ thể để trực tiếp hoặc gián tiếp bắt buộc các doanh nghiệp phải thực hiện. Ngoài ra, nhận thức và hiểu biết về KTCT mang lại cũng chưa cao. Các quy trình KTCT chưa được nghiên cứu, xây dựng cho các ngành công nghiệp như ở một số nước trên thế giới. Các sổ tay hướng dẫn kỹ thuật về KTCT chưa được ban hành và phổ biến rộng rãi trong cộng đồng doanh nghiệp. Chưa có các nghiên cứu đề xuất chính sách khuyến khích việc áp dụng KTCT trong quản lý môi trường như ở các nước.
Giải pháp thúc đẩy kiểm toán chất thải ở Việt Nam
Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, các nguồn tài nguyên đang bị khai thác, sử dụng không bền vững, biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp, trên thế giới đã hình thành trào lưu tăng trưởng xanh với mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn với BVMT và giảm nhẹ biến đổi khí hậu. Ở Việt Nam, với chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, ô nhiễm môi trường do chất thải sẽ ngày càng gia tăng. Vì vậy, việc áp dụng các công cụ phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm, trong đó có KTCT đang là một nhu cầu bức thiết.
Để triển khai áp dụng KTCT, về phía các cơ quan quản lý nhà nước cần thực hiện một số giải pháp sau:
Xây dựng Sổ tay hướng dẫn KTCT cho ngành công nghiệp nói riêng. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục, nâng cao nhận thức về KTCT. Khuyến khích, hỗ trợ phát triển dịch vụ tư vấn về KTCT.
Nghiên cứu xây dựng và ban hành chính sách khuyến khích, bắt buộc áp dụng KTCT trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Bảo đảm một lộ trình nhất định để các doanh nghiệp có thể nắm bắt được rõ các quy định cũng như có phương án chuyển đổi, thay thế và điều chỉnh hoạt động của mình cho phù hợp với điều luật quy định.
Cần có các chế tài khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp tự nguyện áp dụng và cơ chế thực hiện thúc đẩy hoạt động KTCT thông qua cạnh tranh theo hình thức dịch vụ.
Xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về chất thải và KTCT. Áp dụng các tiêu chuẩn mà các nước đã áp dụng nhằm thống nhất quản lý chất thải.
Đối với các doanh nghiệp, cần chủ động nghiên cứu, tìm hiểu và áp dụng KTCT trong các hoạt động sản xuất của mình để hướng tới BVMT và tiết kiệm các chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp này, từ năm 2009, Viện Chiến lược, Chính sách TN&MT đã được triển khai thực hiện Dự án “Áp dụng thử nghiệm KTCT trong quản lý môi trường ngành công nghiệp Việt Nam”, thời gian từ 2009 đến 2012. Dự án tập trung nghiên cứu, xây dựng Sổ tay KTCT cho ngành công nghiệp nói chung và cho 10 ngành công nghiệp đặc thù nói riêng, đồng thời hướng tới xây dựng chính sách yêu cầu các doanh nghiệp phải triển khai KTCT, sử dụng KTCT như một công cụ kiểm soát ô nhiễm trong thời gian tới.








