Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 13/01/2006 23:49 (GMT+7)

Khu vực bắc Tây Nguyên trước thế kỷ XX

Từ năm 1149, khi vua Chăm là Harivarman đệ nhất đánh đuổi người Chân Lạp ra khỏi đất nước rồi thừa thế tiến đánh các bộ lạc Thượng và chiếm miền cao nguyên, người Thượng đã nổi dậy chống lại người Chiêm Thành. Khi nghĩa quân Thượng bị đánh bại chạy sang nước Đại Việt, họ đã được vua Lý Anh Tông tiếp đón và giúp đỡ lương thực, vũ khí, bổ sung lực lượng để quay lại Tây Nguyên tiếp tục chiến đấu (1). Năm 1471 khi vua Lê Thánh Tông vào phương Nam, quân Đại Việt tiến lên Tây Nguyên, nhà vua đặt Tây Nguyên là nước Nam Bàn, một phiên quốc của Đại Việt (2). Nhưng trên thực tế, cho đến lúc này vẫn chưa có sự lệ thuộc nào giữa các bộ tộc trong khu vực Bắc Tây Nguyên, với quốc gia Đại Việt. Năm 1540, ông Bùi Tá Hán được bổ nhiệm vào trấn thủ Quảng Nam, trong đó có cả địa phận Quảng Ngãi. Sau khi dẹp được loạn “Đá Vách”, ông đã đưa ra những chính sách nhằm thắt chặt mối quan hệ giữa Đại Việt với các bộ tộc trên cao nguyên như:

- Tổ chức dinh điền, đồn điền và di dân lên lập ấp trên vùng cao.

- Cho phép thương lái lên buôn bán với người Thượng. Ngoài ra còn cho phép nông dân lên vùng Thượng làm ăn và lập nghiệp.

- Tiến cử các vị tù trưởng, thân hào Thượng và xin triều đình nhà Lê phong vương cho 2 vị thủ lĩnh người Giarai là Thuỷ Xá và Hoả Xá.

- Khuyến khích người Thượng tham gia vào các hoạt động của quốc gia.

- Đặt ra chức giao dịch người địa phương để đặc trách các công việc trên vùng sơn cước. Mỗi giao dịch gồm có 4 Nguyễn, mỗi Nguyễn có một cái quân và một số con quân. Con quân tổ chức một số thương nhân để đi lại liên lạc trên vùng Thượng (3). Những chính sách trên của Bùi Tá Hán đã làm cho mối quan hệ Kinh - Thượng trở nên gắn bó mật thiết hơn.

Đến thế kỷ thứ XVII, để mở rộng phạm vi ảnh hưởng lên Tây Nguyên, Chúa Nguyễn đã đưa những tù bình bị bắt trong chiến tranh Trịnh - Nguyễn lên khai phá vùng đất này. Khoảng niên hiệu Thịnh Đức nhà Lê (1653-1657), một số người Việt ở Nghệ An (trong đó có ông tổ 4 đời của Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ) bị quân của chúa Nguyễn bắt vào Đàng Trong cho ở ấp Nhất vùng Tây Sơn (thuộc huyện An Khê, tỉnh Gia Lai ngày nay). Nhóm người Việt này đã khai phá lập ra Ấp Tây Sơn nhất tức thôn An Khê và ấp Tây Sơn nhì tức thôn Cửu An (4). Có lẽ đây là nhóm người Việt đầu tiên lên sinh sống ở khu vực Bắc Tây Nguyên. Trên thực tế, cho đến thế kỷ XVIII chính quyền phong kiến nhà Nguyễn vẫn chưa trực tiếp với tay tới vùng Tây Sơn thượng đạo (tức vùng đất thuộc 3 huyện An Khê, Kbang, và Kon Chro của tỉnh Gia Lai ngày nay).

Mãi cuối thế kỷ, nhờ công lao của anh em Tây Sơn, mối quan hệ Kinh - Thượng mới thực sự trở nên khắng khít. Do thường xuyên qua lại buôn bán trên vùng Thượng đạo, Nguyễn Nhạc nhận thấy đây là một vùng đất lý tưởng cho việc xây dựng cơ sở ban đầu của cuộc khởi nghĩa nông dân. Sách Tây Sơn thuỷ mạtkhảocó chép: “Năm Tân Mão, thứ 32, niên hiệu Cảnh Hưng nhà Lê (1771) Nguyễn Văn Nhạc vào trong đám miền Thượng đạo lập ra đồn trại” (5). Trong quá trình xây dựng căn cứ địa chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa, anh em Tây Sơn đã bỏ nhiều công sức vào việc vận động quần chúng, trong đó việc vận động đồng bào các dân tộc thiểu số đã được đặc biệt chú ý. Họ đã đi khắp các buôn làng Bana, người Kinh trong vùng kiên trì vận động và hướng quần chúng nhân dân vào mục đích khởi nghĩa. Nguyễn Nhạc đã được đồng bào các dân tộc bắc Tây Nguyên rất mực tin yêu. Một tù trưởng người Bana vùng Thượng đạo đã gả con gái của mình cho Nguyễn Nhạc. Người phụ nữ này tên gì không rõ nhưng về sau nhân dân trong vùng vẫn gọi bà là Yă Đoh (tức bà của Đoh). Bà đã sống hết mình với phong trào Tây Sơn, đã vận động đồng bào trong vùng cùng nghĩa quân khai phá cánh đồng rộng khoảng 20 ha ở chân núi Cà Noong (nay thuộc xã Nghĩa An, huyện Khang) để trồng lương thực cung cấp cho nghĩa quân. Hiện nay cánh đồng này vẫn được gọi là Cánh đồng cô Hầu. Bằng những nỗ lực của mình, anh em Tây Sơn đã được đồng bào các dân tộc bắc Tây Nguyên như Bana, Giarai, Xơđăng… coi như những người đồng tộc. Dưới ngọn cờ Tây Sơn, người Tây Nguyên đã cùng nghĩa quân người Việt chiến đấu kiên cường để thống nhất đất nước, đánh tan quân xâm lược Xiêm, Thanh bảo vệ nền độc lập của nước nhà. Đến nay trên vùng 3 huyện phía đông của tỉnh Gia Lai là: Khang, An Khê, Kon Chro vẫn còn khá nhiều di tích chứng tỏ nơi đây là căn cứ địa buổi đầu vững chắc của nghĩa quân Tây Sơn. Từ những chứng tích về quá trình tập hợp lực lượng và xây dựng cơ sở hậu cần tại chỗ như: Vườn Mít, cánh đồng cô Hầu, Gò Kho – Xóm Ké, Sa khổng lồ - Hồ ông Nhạc…; những chứng tích về quá trình xây dựng đồn trại và tổ chức lực lượng khởi nghĩa như: Hòn Bình – Hòn Nhược – Hòn Tào (các tên khác nhân dân trong vùng gọi ông Huệ, ông Nhạc, ông Lữ), Bờ Luỹ…; đến những chứng tích đánh dấu bước phát triển của nghĩa quân Tây Sơn từ rừng núi xuống đồng bằng như: Miếu Xà, cây ké phất cờ - Cây cầy nổi trống. (6)

Dưới thời Nguyễn, do điều kiện cụ thể lúc ấy ở vùng đất phía Nam, người Việt đang từng bước mở rộng địa bàn cư trú, mối quan hệ giữa triều đình phong kiến Việt Nam với các tù trưởng ở khu vực bắc Tây Nguyên như Thuỷ Xá và Hoả Xá trở nên khắng khít, gắn bó hơn. Xuất phát từ điều kiện cụ thể, nhà Nguyễn thường gắn liền vấn đề dân tộc với ngoại giao, quốc phòng và an ninh. Năm 1804, hai năm sau khi lên ngôi, Gia Long đã có những chính sách đặc biệt nhằm củng cố an ninh và phát triển kinh tế trên vùng Thượng.

Về hành chính: vùng Thượng Nam – Ngãi được coi là đất phong hầu của công thần Nguyễn Công Toản và đã có tên là Trấn Man từ năm 1773 (7).

Về quân sự: Đại Nam thực lục chính biên ghinăm 1819, Tả quân Lê Văn Duyệt được Gia Long phái đến vùng Thượng du các tỉnh trung Trung bộ để dẹp loạn rồi đắp luỹ “Sơn phòng” từ Trà Bồng đền An Lão dài 90 km. Việc mở mang kinh tế vùng dân tộc thiểu số bấy giờ giao cho Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Khắc Tuấn phụ trách.

Về kinh tế: Hai ông đã tổ chức dạy cho đồng bào Thượng cày bừa bằng trâu bò; tổ chức nhiều khu dinh điền và đồn điền để di dân ở đồng bằng lên khai hoang lập ấp, khuyến khích trao đổi hàng hoá giữa người Kinh và người Thượng (8). Ở vùng An Khê hiện nay, nhà Nguyễn đã cho thiết lập những nguồn cơ sở để thu thuế như nguồn Cầu Bông, Phương Kiệu, Đại Nam nhất thống chíchép “Ở chỗ thôn An Khê, huyện Bình Khê là chỗ nha kinh lý cũ, xứ Chợ Đồn, nguyên trước là ấp An Sơn, tên là sở nguồn Cầu Bông, nơi đây có nhiều lam chướng, nên năm Minh Mạng thứ 10 (1829) dời qua chỗ này (Thôn An Khê) và đổi tên là Phương Kiệu”. Nhân dân trong vùng còn nhớ rõ hệ thống tổ chức ở nguồn sở: cao nhất là đốc quyên, sau đó đến chiêu biện (có thể coi như thủ quỹ). Dưới hương sở là trùm sở, tri sở, phó sở. Nguồn lợi thu được từ trường sở này rất lớn. Hàng năm người ta trích một phần số tiền thu được để tổ chức hát bội (9).

Dưới thời Nguyễn, các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên chịu ảnh hưởng của Thuỷ Xá, Hoả Xá được gọi là những thuộc quốc. Với tư cách là những thuộc quốc, Thuỷ Xá và Hoả Xá thường xuyên đến triều cống và được các vua nhà Nguyễn đối xử tử tế nhằm lấy ân đức để giáo hoá. Vua Minh Mạng đã dùng chính sách “Nhu viễn” để thu phục các sắc dân miền núi. Nhu viễn là một chính sách giao tiếp phủ trị cõi xa. Nguyên lý của chính sách này là “Chiêu văn đức dĩ lai chi” tức là mình phải làm cho sáng cái văn đức khoan dung, đại lượng để người ta tình nguyện theo về với mình (10).

Năm Minh Mạng thứ 10 (1829) Thuỷ Xá phái 2 người là ma Diên (cha của Diên) cùng ma Xuân đến trấn Phú Yên tiến dâng 1 ngà voi và xin triều cống (11).

Năm Minh Mạng thứ 12 (1831) triều đình nhà Nguyễn quy định hạn kỳ dâng cống cho nước Thuỷ Xá là 3 năm một lần vào trung tuần tháng sáu của các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu. Theo quy định của triều Nguyễn, địa điểm dâng cống của Thuỷ Xá ở Phú Yên (12)và số bản vật địa phương dâng cống là: 2 ngà voi và 2 sừng tê giác (13). Trong năm này, Thuỷ Xá đã sai sứ sang triều cống. Vì đây là lần triều cống đầu tiên nên được Minh Mạng mời đến kinh đô hỏi han để bày tỏ sự quan tâm đến một thuộc quốc xa xôi (14)và ban thưởng cho Thuỷ Xá: 2 cây gấm nhà Tống, 2 xấp trừu sa, 2 tấm vũ đoạn, 8 tấm la-sa Việt, 11 tấm the ta loại tốt, 1 tấm the tốt màu hồng có bông nhỏ… (15).

Năm Minh Mạng thứ 15(1834), nhà vua xuống dụ: “Nước Thuỷ Xá ở vùng xa xôi, không từ gian hiểm, chiếu theo hạn kỳ triều cống thật đáng khen, Trẫm chuẩn cho lần này nước ấy được đến kinh đô chiêm cận để uỷ lạo lòng của kẻ ở xa” (16). Trong bản dụ này, vua Minh Mạng cũng tỏ rõ thái độ “Trẫm nghĩ nước đó ở vào một góc xa xôi, thắt nút dây mà cai trị, tự cày cấy mà làm ăn, phong tục còn theo thời thượng cổ, nhưng người đều có đủ tóc và răng như chúng ta, ắt phú bẩm cho họ cũng có năng trí thì sao lại không có thể giúp cho họ làm lành được? Cho nên thánh nhân đã lấy văn minh mà giáo hoá man rợ, phải lấy lễ nghĩa dẫn dắt họ, khiến họ ngày càng theo phong tục văn minh (17).

Để thu phục các tộc người thiểu số, nhà Nguyễn đặc biệt chú ý đến việc đào tạo các viên chức người Thượng và viên chức người Kinh để phục vụ cho công tác miền Thượng. Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), Nhà vua ra lệnh cho các Bộ, Viện lựa chọn những con em dưới 16 tuổi cho học ngôn ngữ, phong tục tập quán của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Khi học xong sẽ lựa chọn để sử dụng. Các thông dịch viên này được giao nhiệm vụ thông sự, hướng dẫn sứ bộ và phiên dịch các văn bản từ tiếng dân tộc thiểu số. Họ được triều đình xếp vào hàng bát phẩm, cửu phẩm… (18). Lê Văn Quyền là một trong những người có sứ mệnh quan trọng trong việc gắn kết mối quan hệ giữa triều đình phong kiến Nguyễn với Thuỷ Xá, Hoả Xá. Sinh ra và lớn lên ở huyện Đồng Xuân tỉnh Phú Yên, ngay từ thuở nhỏ, Lê Văn Quyền đã theo những đoàn thương lái len lỏi lên buôn bán trên xứ Thượng. Nhờ thông minh và ham học hỏi nên chưa đầy 20 tuổi ông đã thông thạo tiếng Giarai, Bana. Được các quan tỉnh Phú Yên tiến cử, Lê Văn Quyền ra Huế làm phiên dịch tiếng Thượng cho triều đình và dạy tiếng Thượng cho những thanh niên được các tỉnh tuyển chọn đưa ra Huế học tiếng của các dân tộc thiểu số và tiếng nước ngoài. Chính ông đã làm phiên dịch trong những lần sứ thần của Thuỷ Xá và Hoả Xá xuống Phú Yên và về kinh đô triều cống. Năm 1840, Lê Văn Quyền được lệnh đi thám sát vùng đất cao nguyên ở phía Tây. Trong chuyến đi này vùng đất của Thuỷ Xá và Hoả Xá được đặc biệt lưu tâm. Phái đoàn của Lê Văn Quyền đi từ đồn Phước Sơn tỉnh Phú Yên. Sau 6 ngày, đoàn đã đến nơi và được Thuỷ Xá, Hoả Xá tiếp đãi trọng hậu lúc phái đoàn trở về, sứ giả Hoả Xá đã cùng đế kinh đô cống hiến những sản vật địa phương như: sừng tê, ngà voi. Họ đã được vua Thiệu Trị đón tiếp (19).

Vào cuối đời Thiệu Trị, đầu đời Tự Đức (khoảng năm 1847) nhân việc nhà Nguyễn ra sắc chỉ “Bình Tây sát tả” khủng bố đạo Thiên Chúa, Giám mục địa phận Quy Nhơn ráo riết tìm đường lên cao nguyên để truyền giáo đồng thời đưa một số giáo dân lên lánh nạn. Việc tìm đường lên Kon Tum lúc này được giao cho linh mục Nguyễn Do (lúc ấy gọi là Thầy Do). Tháng 4/1848, linh mục Nguyễn Do đã tìm ra con đường đi qua trạm Gò ở phía bắc An Khê để tránh con đường độc đạo qua An Sơn luôn bị quân triều đình canh giữ nghiêm ngặt. Cuối năm 1850, một phái đoàn do linh mục Nguyễn Do dẫn đường đã lên tới Kon Tum. Sau khi lên Kon Tum, các cha cố đã chuộc một số người Việt (mà phần đông là người gốc Quảng Nam, Quảng Ngãi) là nạn nhân của những cuộc đánh cướp nô lệ đang sống trong các làng Xơđăng, cùng với những người Việt theo đạo ở đồng bằng trốn tránh sự truy nã của triều đình nhà Nguyễn lên lập thành những làng mới. Khoảng năm 1885-1886, số người Việt là giáo dân ở đồng bằng lên lánh nạn rất đông, trong đó có một tốp tới hơn 200 người. Đến cuối thế kỷ XIX, khu vực xung quanh thị xã Kon Tum ngày nay đã có 4 làng người Việt (thuộc tổng Tân Hương) là: Làng Tân Hương (lập năm 1874) nguyên là những người theo linh mục Hugon (Xuân); làng Phương Nghĩa (lập năm 1882), là giáo dân theo linh mục Hoà lên; làng Phương Quý (lập khoảng năm 1887) nguyên dân ở đây là những người Việt ở đồng bằng bị người Xơ-đăng bắt làm nô lệ được linh mục Poyet chuộc về cộng với một bộ phận là những lưu dân từ Quảng Nam lên; làng Phương Hoà (lập ra khoảng 1892).

Ở khu vực Pleiku, làng Việt đầu tiên là làng Hội Phú mãi đến năm 1887 mới hình thành.

Tuy nhiên do những nông dân nghèo khổ ở đồng bằng vẫn tiếp tục lên Gia Lai - Kon Tum lập nghiệp nên dân số người Việt ở khu bắc Tây Nguyên tăng khá nhanh. Năm 1884 ở vùng thị xã Kon Tum mới có khoảng 400-500 người Việt nhưng đến đầu năm 30 của thế kỷ này đã lên 5.000 người, còn ở cả vùng Kon Tum và An Khê đã có khoảng 15.000 người Việt sinh sống (20).

Như vậy, mối quan hệ giữa Việt Nam với các tộc người trong khu vực bắc Tây Nguyên nói riêng, Tây Nguyên nói chung đã được manh nha thiết lập từ giữa thế kỷ XII đến thế kỷ XV, dưới thời Lê Thánh Tông một lần nữa chính quyền phong kiến Đại Việt đã có những cố gắng nhằm thu phục các tù trưởng lớn của các tộc người thiểu số trên vùng cao nguyên phía tây nam nhưng những năm sau đó mối quan hệ này vẫn tiếp tục bị bỏ ngỏ. Phải đến cuối thế kỷ XVIII, bằng trí tuệ và tình cảm của mình, anh em Tây Sơn đã thổi bùng lên ngọn lửa đoàn kết Kinh-Thượng. Trong thời kỳ này những người Thượng trong vùng Thượng đạo đã thật sự coi mình là một bộ phận của quốc gia dân tộc Việt Nam và đã có những đóng góp to lớn vào thắng lợi vĩ đại của phong trào nông dân Tây Sơn. Dưới thời Nguyễn, các tù trưởng lớn ở Bắc Tây Nguyên như Thuỷ Xá, Hoả Xá đã thực hiện triều cống theo định kỳ đối với triều đình phong kiến Việt Nam, nhưng với những người Việt thì vùng đất phía tây dãy Trường Sơn vẫn còn đầy bí hiểm. Phải đến giữa thế kỷ XIX, những lưu dân người Việt mới tiến lên khai thác vùng đất phía tây Trường Sơn, tạo cơ sở ban đầu để hình thành những trung tâm kinh tế-xã hội quan trọng của khu vực bắc Tây Nguyên ngày nay.

________________

(1) Cửu Long Giang – Toan Ánh: Miền Thượng cao nguyên Việt Nam, Sài Gòn 1974, các tr.55, 126, 117.

(2) Phan Văn Bé: Tây Nguyên sử lược, tập I. Hội giáo dục lịch sử, HN 1993, tr.29.

(3) Paul Nưr: Sơ lược về chính sách Thượng vụ trong lịch sử Việt Nam, Sài Gòn 1966, các tr. 40-45.

(4) Nguyễn Quang Ngọc: Ấp Tây Sơn Nhất trong Tư liệu về Tây Sơn - Nguyễn Huệ, tập I, “Trên đất Nghĩa Bình”, xuất bản năm 1988, các tr. 13, 18-19.

(5) Dẫn theo Phan Đại Doãn: Ấp Tây Sơn Nhì trong Tư liệu về Tây Sơn - Nguyễn Huệ, tập I. “Trên đất Nghĩa Binh”, xuất bản năm 1988, tr.27.

(6) Nguyễn Thị Kim Vân: “Đề cương tổng quát về quần thể di tích Tây Sơn Thượng Đạo - Hồ sơ Quần thể di tích Tây Sơn Thượng Đạo”-lưu Cục Bảo tồn-Bảo tàng (Bộ Văn hoá-Thông tin).

(7) Paul Nưr: Sơ lược về chính sách Thượng vụ trong lịch sử Việt Nam. Sài Gòn 1966, các tr. 40,45.

(8) Phan Hữu Dật, Lâm Bá Nam: Chính sách dân tộc của các chính quyền Nhà nước phong kiến Việt Nam(X-XIX). NXB CTQG, Hà Nội 2001,tr.69.

(9) Nguyễn Quang Ngọc: Ấp Tây Sơn Nhất trong Tư liệu về Tây Sơn - Nguyễn Huệ, tập 1, “Trên đất Nghĩa Bình”, xuất bản năm 1988, các trang 13, 18-19.

(10) Cửu Long Giang - Toan Ánh: Miền Thượng cao nguyên Việt Nam, Sài Gòn 1974, các tr. 55, 126, 117.

(11) Nhu viễn trong Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ, quyển 135, tờ 26b. Bản dịch của Tạ Quang Phái - Bộ Văn hóa - Giáo dục Sài Gòn, 1965, tập II, tr. 105.

(12) Nhu viễn trong Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ, quyển 134, tờ 16a-16b. Bản dịch của Tạ Quang Phát - Bộ Văn hoá - Giáo dục Sài Gòn, 1965, tập II, tr 69.

(13) Nhu viễn trong Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ, quyển 135, tờ 27a. Bản dịch của Tạ Quang Phát - Bộ Văn hoá - Giáo dục Sài Gòn, 1965, tập II, tr. 107.

(14) Nhu viễn trong Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ, quyển 132, tờ 16a. Bản dịch của Tạ Quang Phát - Bộ Văn hoá - Giáo dục Sài Gòn. 1965, tập I, tr. 31.

(15) Nhu viễn trong Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ, quyển 132, tờ 212a. Bản dịch của Tạ Quang Phát - Bộ Văn hóa - Giáo dục Sài Gòn, 1965, tập I, tr. 177-179.

(16) Nhu viễn trong Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ, quyển 134, tờ 16b. Bản dịch của Tạ Quang Phát - Bộ Văn hoá - Giáo dục Sài Gòn, 1965, tập II, tr. 69.

(17) Phan Hữu Dật, Lâm Bá Nam: Chính sách dân tộc của các chính quyền Nhà nước phong kiến Việt Nam(X-XIX), NXB CTQG, Hà Nội 2001, tr.79.

(18) Cửu Long Giang - Toan Ánh: Miền Thượng cao nguyên Việt Nam, Sài Gòn 1974, các tr. 55, 126, 117.

(19) Nguyễn Thị Kim Vân: Quá trình khai phá đất đai và tụ cư của người Việt ở Gia Lai - Kon Tum từ thế kỷ XVII đến nửa đầu thế kỷ XX. Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5/2000, tr. 43-49.

Nguồn: Xưa và Nay, số 224, tháng 11/2004

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Đại hội thi đua yêu nước Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ V
Đây là sự kiện chính trị quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc trong công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), là ngày hội tôn vinh điển hình tiên tiến các tập thể, cá nhân nhà khoa học trong hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu, đóng góp cho công tác hội và sự nghiệp KH&CN nước nhà.
THI ĐUA LÀ YÊU NƯỚC!
Năm 2025 không chỉ đánh dấu nhiều ngày lễ trọng đại của đất nước, mà còn là mốc son đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thảo luận, đề xuất các giải pháp phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững
Ngày 6/6, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Tổng Hội Xây dựng Việt Nam tổ chức Hội thảo Phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững. Các chuyên gia, nhà khoa học tại hội thảo đã làm rõ vai trò và nhu cầu cấp thiết của phát triển hạ tầng xanh, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp về chính sách và công nghệ.