Khu nghiên cứu chuyển giao và ươm tạo công nghệ Hải Phòng
Để đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và phát triển công nghệ, ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao trong lĩnh vực công nghệ sinh học, năng lượng tái tạo, công nghệ vật liệu của thành phố và vùng Duyên hải Bắc Bộ; đồng thời tạo điều kiện cho ngành khoa học và công nghệ thành phố thu hút nguồn lực khoa học trong và ngoài nước để thực hiện nghiên cứu phát triển, tiếp nhận, chuyển giao công nghệ kết hợp sản xuất kinh doanh, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao phục vụ nghiên cứu và sản xuất sản phẩm công nghệ cao, ngày 29/10/2010, Chủ tịch UBND thành phố ban hành quyết định số 1835/QĐ-UBND phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình Khu nghiên cứu, chuyển giao và ươm tạo công nghệ Hải Phòng. Dự án do Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng Khoa học và Công nghệ (thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Hải Phòng) làm chủ đầu tư.
Vài nét về dự án Khu nghiên cứu, chuyển giao và ươm tạo công nghệ Hải Phòng
Khu nghiên cứu, chuyển giao và ươm tạo công nghệ Hải Phòng sẽ được xây dựng trên diện tích 194.340,53m 2tại phường Tràng Minh, quận Kiến An, Hải Phòng trong thời gian từ 2011 – 2015, với số vốn đầu tư là 312.538 triệu đồng.
Dự án bao gồm 4 phân khu chức năng chính: Khu quản lý điều hành – đào tạo – dịch vụ thương mại (gồm: nhà làm việc, quản lý điều hành và hội thảo; trung tâm ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao và dịch vụ tài chính; trung tâm đào tạo bồi dưỡng nhân lực khoa học và công nghệ; trung tâm dịch vụ thương mại triển lãm, tiếp thị sản phẩm; trung tâm kiểm nghiệm, kiểm định chất lượng sản phẩm); Khu nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và ươm tạo (gồm: nhà nghiên cứu ứng dụng, phát triển công nghệ cao); Khu xưởng sản xuất thử nghiệm (pilot) và áp dụng sản phẩm công nghệ cao; Khu bảo tồn nguồn gen sinh vật của thành phố và vùng; Các khu hỗ trợ khác (gồm: hạ tầng kỹ thuật, khu công viên cây xanh, khu nhà lưu trú cho chuyên gia, kỹ sư, công nhân; khu nhà lưu trú cho học viên nghỉ trong khóa đào tạo và một số công trình phụ trợ khác).
Mô hình hoạt động của dự án là mô hình gắn kết 4 nhà: Hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ cao có sự gắn kết, liên kết giữa daonh nghiệp – viện nghiên cứu, trường đại học, tổ chức khoa học công nghệ; Hoạt động đào tạo tập huấn nhân lực khoa học công nghệ có sự gắn kết, liên kết giữa cơ quan quản lý nhà nước – viện nghiên cứu, trường đại học , tổ chức khoa học công nghệ; Hoạt động sản xuất thử nghiệm sản phẩm có sự gắn kết, liên kết giữa doanh nghiệp – viện nghiên cứu, trường đại học, tổ chức khoa học công nghệ; Hoạt động ươm tạo công nghệ cao và doanh nghiệp công nghệ cao có sự gắn kết, liên kết giữa cơ quan quản lý nhà nước – doanh nghiệp – viện nghiên cứu, trường đại học, tổ chức khoa học công nghệ.
Trước mắt, dự án sẽ tập trung trong các lĩnh vực: nông nghiệp nông thôn, kinh tế biển (nuôi trồng thủy sản, bảo quản chế biến sau thu hoạch, bảo vệ tài nguyên môi trường ven biển, hải đảo…), năng lượng mặt trời, năng lượng gió, bảo vệ và xử lý ô nhiễm môi trường cho nông nghiệp, công nghiệp, khu dân cư, khu du lịch…; phát triển đô thi sinh thái, an toàn công cộng (vệ sinh an toàn thực phẩm, y tế cộng đồng…).
Giá trị khoa học và thực tiễn
Thực tế cho thấy, tiến bộ khoa học công nghệ ngày càng được áp dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trở thành động lực phát triển kinh tế xã hội. Khoa học công nghệ có tác động lan tỏa trực tiếp và gián tiếp tới mọi ngành trong nền kinh tế, tạo ra các ngành nghề mới và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Tuy nhiên hiện nay trình độ khoa học và công nghệ của thành phố còn thấp, hoạt động nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ còn nhiều khó khăn: số lượng cơ quan nghiên cứu cũng như lực lượng cán bộ nghiên cứu khoa học công nghệ còn mỏng và phân tán, đầu tư cho khoa học và công nghệ còn hạn chế, một số kết quả nghiên cứu không áp dụng được do công nghệ chưa thực sự ổn định và hoàn chỉnh, các doanh nghiệp thường có quy mô nhỏ và ít quan tấm đến áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ… vì vậy, đầu tư cơ sở vật chất cho các đơn vị nghiên cứu, ươm tạo, hoàn thiện và chuyển giao để rút ngắn thời gian đưa tiến bộ khoa học và công nghệ vào cuộc sống là cần thiết, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy, có thể nói, dự án được tiến hành đầu tư, xây dựng, và đi vào hoạt động sẽ góp phần quan trọng giảm bớt những hạn chế trên. Bên cạnh đó, đây sẽ trở thành trung tâm đào tạo và chuyển giao các kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ cho thành phố, đồng thời thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa thành phố Hải Phòng nói riền và khu vực Duyên hải Bắc Bộ nói chung:
Xét dưới góc độ xã hội, đây là lần đầu tiên trên địa bàn Hải Phòng có một khu nghiên cứu, chuyển giao và ươm tạo công nghệ, sẽ góp phần quan trọng nâng cao trình độ nghiên cứu ứng dụng công nghệ cao, áp dụng cho nhiều ngành nghề và nhiều lĩnh vực.
Xét dưới góc độ kinh tế, đây là điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư tiếp cận và đưa các nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực công nghệ sinh học, năng lượng mới vào thực tiễn một cách trực tiếp và nhanh nhất để đạt năng suất, hiệu quả kinh tế cao.
Xét dưới góc độ chính trị, thành công của dự án sẽ tạo nên ảnh hưởng lớn tới vị thế của thành phố Hải Phòng trên thị trường trong nước và khu vực. Qua đó, tạo điều kiện để phát huy một cách tích cực nội lực cũng như vai trò của trung tâm nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ nói riêng, ngành khoa học và công nghệ Hải Phòng nói chung, đồng thời giảm bớt sự phụ thuộc vào các nguồn lực bên ngoài.
Tính đột phá của dự án trong việc chuyển đổi sức sản xuất trong công nghiệp, nông nghiệp Hải Phòng theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa là điều không phải bàn cãi, tuy nhiên để thực hiện thành công mục tiều đề ra rất cần sự quan tâm, vào cuộc đồng bộ của các cấp, ngành, trường đại học, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, tổ chức dịch vụ khoa học công nghệ và các doạnh nghiệp trên địa bàn thành phố.








