Khu di chỉ khảo cổ thành Cổ Loa: Giải mã nỏ thần Liên Châu
Thành Cổ Loa được xây bằng tre
An Dương Vương cho xây thành Cổ Loa gồm chín vòng thành. Hiện nay, chỉ còn lại ba vòng thành bằng đất dài 15,8 km. Nhiều đoạn cho đến nay đã bị rửa trôi chỉ còn lại những đống đất nhỏ. Về kỹ thuật xây thành, các nhà khoa học quân sự thời đó đã khôn khéo chọn: đầm lầy để đào sâu làm hào và hệ thống hào lũy hình xoáy trôn ốc (nếu xoay từ ngoài vào thì ngược chiều kim đồng hồ). Do xây thành trên đầm lầy nên người xưa đã lấy đá tảng kè dưới chân thành chống lún và chống trượt. Các cuộc khảo sát khảo cổ từ năm 1990 đến nay đã tìm thấy nhiều đá tảng, mùn hữu cơ, cọc tre và cọc gỗ.
Theo kỹ sư Lê Minh Hồng, Giám đốc VFST, trước khi xây thành Cổ Loa, An Dương Vương đã có thời gian sống và học được kinh nghiệm chống thú dữ của người miền núi (ken tre, vầu xung quanh khuôn viên nhà để chăn thả gia súc, tre tươi chôn vào đất ẩm, năm sau mọc thành lũy tre dày). Khi di cư về đồng bằng, kinh nghiệm này đã được An Dương Vương vận dụng sáng tạo để xây thành. Theo đó, người Việt cổ đắp đê bao bọc làng để ngăn lũ, trên đê trồng tre thành lũy dày chống cướp và thú dữ… Hào sâu vừa để trữ nước vào mùa khô và làm chướng ngại vật. Vì thế, trong tiếng Việt có hai từ ghép cổ là: Thành trì – thành và ao (trì), thành lũy - gồm thành và lũy tre. Để đắp đê ở đầm lầy có nhiều bùn nhão, người Việt cổ dùng ba cọc tre dựng thành hình chóp. Sau đó, họ dùng liếp, rơm rạ, và cành cây để tạo các vách cho hình chóp rồi đổ bùn nhão vào giữa. Nhiều mô hình này kết hợp với nhau sẽ tạo thành con đê vững chắc. Kỹ thuật này còn truyền đến phường thợ đấu Bình Lục (Hà Nam) khi xây nhà hoặc đắp đê chống lũ lụt. Theo tính toán để thực hiện việc đắp đất ở Cổ Loa, An Dương Vương phải huy động ba vạn người đắp trong 5 năm.
Kỹ nghệ nỏ thần Liên Châu
Để tạo ra sức mạnh vượt trội, áp đảo khi tác chiến, Cao Lỗ đã sáng tạo ra nỏ thần Liên Châu (Liên Châu nổ). Sự kiện này được chép trong Hậu Hán Thư và truyền thuyết dân gian. Sáng tạo này không kém gì việc tạo tác nên thành Cổ Loa. Kỹ sư Hồng cho biết: “Chúng tôi giải mã cấu tạo nỏ thần Liên Châu ở hai chi tiết: chữ Liên và lẫy nỏ làm bằng móng rùa”.
Chữ Liên có nghĩa là liên kết, kết nối. Muốn tạo ra nỏ khổng lồ, có sức sát thương mạnh phải liên kết nhiều nỏ trên một thân nỏ. Đây chính là thuật tổ hợp “góp gió thành bão”. Nếu một nỏ nạp một thế năng của tráng sĩ khoảng 50N và chỉ bắn một mũi tên thì nỏ Liên Châu do liên kết từ 2 nỏ đến 5 nỏ sẽ tạo ra một thế năng tổng hợp là 50N. Các nhà khoa học ở VFST đã làm nỏ Liên Châu với 3 dây cung, có khả năng giải phóng khoảng 150N. Với cách làm này, nỏ dễ dàng bắn ra hàng nghìn mũi tên một lần hoặc phóng ra ngọn lao xa tới 60m. Bí mật nỏ thần Liên Châu là ở chỗ lên dây cung (nạp năng lượng) nhiều lần nhưng giải phóng một lần. Giải pháp này nhằm tích tụ nhiều thế năng nhỏ để tạo ra một thế năng có sức công phá lớn. Vì thế, ngọn lao phóng ra từ nỏ thần Liên Châu vừa mạnh vừa đi xa, dễ dàng xuyên thủng áo giáp bằng da của giặc.
Móng rùa được dùng làm lẫy nỏ, có tính chất của sừng vừa cứng vừa dai rất khó vỡ. Điểm tỳ lẫy nỏ chụi lực rất lớn nếu làm bằng tre gỗ dễ nứt vỡ. Để khắc phục điều này, Cao Lỗ đã tạo ra một con lăn quay giúp đẩy dễ dàng hàng ngàn mũi tên hay cây lao bắn về phía trước.
Giải mã các di sản của người xưa để lại chúng ta càng tự hào về sức sống Việt Nam mãnh liệt. Đó là truyền thống lao động sáng tạo, xây dựng bảo vệ tổ quốc, tạo nên sức mạnh Việt Nam suốt chiều dài lịch sử.
Nguồn: KH&ĐS Số 99 Thứ Hai 11/12/2006