Khoảng trống khoa học công nghệ biển
Nhiều việc, ít người
Lê Đức Vĩnh là một trong số 30 sinh viên khoá K05 Khoa Vật lý, Đại học Khoa học tự nhiên TP.HCM, vừa tốt nghiệp ngành khí tượng thuỷ văn – hải dương học. Quê ở Thanh Hoá nhưng Vĩnh đang định xin vào làm việc tại đài Khí tượng thuỷ văn tỉnh Bến Tre vì ở quê không có nhu cầu tuyển dụng. Vĩnh sẽ làm việc trong ngành khí tượng thuỷ văn, khi nào có điều kiện sẽ tiếp tục học lên nữa. “Nhiều nơi cần tuyển dụng để làm việc trên biển nhưng có lẽ kiến thức hiện tại của tôi chưa đủ”, Vĩnh băn khoăn nói.
PGS.TS Trần Thục, Viện trưởng Viện Khoa học khí tượng – thuỷ văn và môi trường, cho biết, hiện nay nhu cầu cán bộ khí tượng thuỷ văn và hải dương học là rất lớn, nhưng khả năng đào tạo của các cơ sở trong nước còn rất hạn chế cả về số lượng lẫn trình độ. Các cơ sở đào tạo như Đại học Tài nguyên và Môi trường, Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường TP.HCM và hai đại học Quốc gia Hà Nội và TP.HCM, hàng năm chỉ đào tạo được trên 100 cán bộ hệ đại học và sau đại học.
Theo TS Võ Lương Hồng Phước, Trưởng bộ môn khí tượng thuỷ văn – hải dương học của Đại học Khoa học tự nhiên TP.HCM, trung bình mỗi năm chỉ tiêu của trường là 100 nhưng chỉ khoảng 60 thí sinh nhập học, đến năm cuối chỉ còn 30 sinh viên tốt nghiệp, và chưa tới 60% số kỹ sư ra trường làm đúng ngành nghề!
Việt Nam có 28 tỉnh, thành phố ven biển có chi cục quản lý biển và hải đảo, nhưng số cán bộ có kiến thức về hải dương và môi trường biển rất ít. Tại hội thảo “Đào tạo nguồn nhân lực ngành tài nguyên và môi trường” tổ chức cuối năm 2010, Viện Khoa học khí tượng – thuỷ văn và môi trường cho biết, trong vòng vài năm tới, nhu cầu cán bộ có trình độ chuyên sâu trong lĩnh vực nghiên cứu về biến đổi khí hậu, nhất là biển và tương tác biển – khí quyển sẽ trở nên vô cùng cấp thiết.
Đầu tư chưa đúng tầm
“Nếu cứ tiếp tục đầu tư dàn trải nguồn lực vốn đã ít ỏi như hiện nay thì không biết đến bao giờ Việt Nam mới có đủ nguồn lực cho chiến lược phát triển kinh tế biển?” |
TS Lê Đình Mầu, Trưởng phòng Vật lý biển của Viện Hải dương học Nha Trang, một trong số các nhà khoa học trực tiếp tham gia giảng dạy và hướng dẫn sinh viên ngành hải dương học nhận xét, với cơ sở vật chất hiện có thì còn lâu mới đào tạo đủ yêu cầu. “Tàu và thiết bị đo đạc phục vụ nghiên cứu hải dương không có. Tàu khảo sát của viện chỉ đo đạc tối đa ở độ sâu hạn chế”, ông Mầu bức xúc.
Hải dương học – khí tượng – thuỷ văn là ngành nghiên cứu đa ngành liên quan đến rất nhiều khoa học cơ bản từ toán học, vật lý, hoá học, sinh học đến khoa học về địa chất và môi trường. Suốt quá trình học, sinh viên bắt buộc phải tham gia nhiều chuyến thực địa khảo sát trên đất liền và trên biển. Tuy nhiên, theo TS Hồng Phước, trở ngại lớn nhất đối với chất lượng đào tạo chính ở khâu này. Mỗi chuyến thực tập, sinh viên phải làm nhiều đo đạc về sóng, các yếu tố khí tượng, khảo sát dòng chảy, lấy mẫu trầm tích… thông thường phải mất 7 – 10 ngày. “Với chừng đó khối lượng công việc, kinh phí hỗ trợ thực tập mỗi đầu sinh viên chỉ 100.000 đồng. Trong khi đó, chi phí tổng cộng cho mỗi chuyến khảo sát như vậy ít nhất cũng 1 triệu đồng/sinh viên”, bà Phước chia sẻ. Nếu so sánh giữa các ngành khoa học cơ bản thì ngành hải dương học của Việt Nam cũng kém xa. Chẳng hạn, riêng khoa hải dương học của trường đại học NTU (Đài Loan) đã có trên mười máy đo profile, vận tốc đo được nhiều tầng nước và nhiều cấp độ khác nhau, trong khi Đại học Khoa học tự nhiên TP.HCM không có cái nào, và cả Việt Nam chỉ có độ ba cái rải rác ở các viện.
Vừa trở về sau chuyến thực tập tại viện Hải dương học Nha Trang, Nguyễn Thị Kim Hoàng, sinh viên năm thứ tư của bộ môn khí tượng thuỷ văn – hải dương học, đại học Khoa học tự nhiên TP.HCM nói: “Chuyến đi thực sự thú vị, nhưng với quá nhiều mục tiêu cho một thời gian khảo sát ngắn ngủi, liệu chúng tôi gặt hái được bao nhiêu thành quả?” Đây cũng là điều khiến nhiều nhà khoa học như TS Lê Đình Mầu phải băn khoăn: “Nếu cứ tiếp tục đầu tư dàn trải nguồn lực vốn đã ít ỏi như hiện nay, thì đến bao giờ Việt Nam mới có đủ nguồn lực cho chiến lược phát triển kinh tế biển?”
PGS.TS NGUYỄN CHU HỒI, PHÓ TỔNG CỤC TRƯỞNG TỔNG CỤC BIỂN VÀ HẢI ĐẢO VIỆT NAM : NÊN TÍNH ĐẾN THÀNH LẬP ĐẠI HỌC TỔNG HỢP VỀ BIỂN Nếu chúng ta đồng ý rằng “quản lý biển” là một khoa học, thì ở nước ta chưa có cơ sở nào đào tạo lĩnh vực này. Người làm quản lý biển hiện nay vì thế chủ yếu theo kinh nghiệm thực tế và “tự học”. Ai sẵn có kiến thức cơ bản về khoa học biển và khoa học chuyên ngành liên quan đến biển (hàng hải, nghề cá biển, dầu khí…) vào làm “nghề tay trái này” cũng thuận lợi hơn. Thế nhưng, những người như thế cũng quá ít hoặc đã lớn tuổi, sẽ nghỉ hưu trong khoảng năm năm tới. Lúc đó, nguồn lực này sẽ cạn! Gần đây, một số đại học ngoài công lập được thành lập ở một số địa phương ven biển, nhưng không quan tâm đến đào tạo “nghề biển”. Có lẽ nên bắt đầu tính đến thành lập một đại học tổng hợp về biển (tập trung đào tạo cơ bản và quản lý về biển, đảo và vùng ven biển), bên cạnh tiếp tục đầu tư cho các trường chuyên ngành liên quan đến kinh tế biển đã có. Cần phải phân biệt hệ thống đào tạo nghề biển chuyên ngành (hàng hải, nghề cá…) và hệ thống đào tạo phục vụ công tác quản lý và quản lý nhà nước về biển, hải đảo, bao gồm cả lĩnh vực khoa học biển/hải dương học (marine science/oceanography) và công nghệ biển/đại dương (marine/ocean technology) – một lĩnh vực Việt Nam còn rất yếu. Chiến lược biển đến năm 2020 cũng đã yêu cầu thành lập một số trường đại học, cao đẳng và dạy nghề về biển. Theo tôi, đã đến lúc phải tập trung đào tạo lại, đào tạo bổ sung nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu trước mắt của hệ thống quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển, hải đảo và đào tạo mới đội ngũ làm nghề biển gắn với khẩn trương xây dựng hệ thống các trường nói trên khi đủ điều kiện. Khác với nhiều ngành, người làm công tác biển nói chung luôn phải làm việc trong môi trường khắc nghiệt, nhiều rủi ro; ra biển là đụng chạm đến vấn đề đối ngoại, nhất là trong thời hội nhập và bối cảnh của Biển Đông. Cho nên, yêu cầu đối với họ là phải có bản lĩnh vững vàng, tính mạo hiểm và ngoại ngữ càng giỏi càng tốt. |








