Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 13/04/2009 15:17 (GMT+7)

Khoa học Việt Nam trên tiến trình đổi mới

Đánh giá tiềm lực và kết quả hoạt động khoa học dựa trên các tiêu chí khách quan quốc tế

Chúng ta không thể đánh giá đúng năng lực của các cá nhân, cơ quan, các kết quả nghiên cứu khoa học để từ đó có sự đầu tư đúng chỗ nếu không bám sát các tiêu chí và thước đo khách quan đã được thử thách trên trường quốc tế. Đó là các sáng chế, bài báo được bình duyệt ở chuẩn mực cao, sản phẩm và công nghệ mới hữu dụng có sức cạnh tranh trên thị trường.

Tiếc rằng từ trước đến nay, các cơ quan quản lý và các cơ sở khoa học ở Việt Nam chưa có được đầy đủ và hệ thống các thông tin quan trọng đó để giúp hoạch định chính sách khoa học và công nghệ (KH&CN) hiệu quả. Con số về lượng GS, PGS, TSKH, TS không phản ánh đúng trình độ KH&CN của chúng ta trong so sánh quốc tế, số đề tài các cấp cùng lượng kinh phí lớn nhỏ không phản ánh được chất lượng nghiên cứu khoa học ở nước ta hiện nay. Ý kiến của các Hội đồng chuyên môn chưa đảm bảo được đầy đủ tính khách quan trong lựa chọn, đánh giá các đề tài khoa học và tư vấn chính sách KH&CN cho các nhà quản lý, lãnh đạo.

Mặc dù Trung tâm Hỗ trợ đánh giá KH&CN thuộc Bộ KH&CN (mới được thành lập) đã có nhiều nỗ lực trong việc thu thập thông tin chuyên gia theo mẫu quốc tế nhưng cũng chưa đạt được kết quả mong muốn (mới chỉ có một bộ phận nhỏ các nhà khoa học chịu khai thông tin chuyên gia - Do thiếu chế tài kèm theo?).

Một số cơ quan khoa học đầu tầu trong nước lần đầu tiên đã tiến hành thống kê dựa trên chuẩn mực quốc tế để đánh giá tiềm lực khoa học của cơ quan mình và có cơ sở xây dựng các chính sách thích hợp. Viện KH&CN Việt Nam và Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG TPHCM) đã đưa ra danh sách các bài báo quốc tế công bố trong những năm gần đây được phân loại theo 4 mức: SCI, SCI Expanded (mở rộng), tạp chí và sách có số hiệu quốc tế ISSN hay ISBN, tạp chí trong nước. Viện KH&CN Việt Nam cũng đã thống kê cả số sáng chế và giải pháp hữu ích, tuy nhiên, số sáng chế còn ít và chưa thấy có sáng chế đăng ký quốc tế.

Các con số thống kê cho thấy, Viện KH&CN Việt Nam với số biên chế 2.265 người có được tổng cộng 725 bài báo quốc tế chuẩn ISI (SCI và SCI mở rộng) trong thời gian gần 5 năm (2004-6.2008), và ĐHQG- TPHCM với gần 2.200 giảng viên có 251 bài ISI trong thời gian gần 3 năm (2006-10.2008).

Xếp hạng theo tỷ lệ (số bài báo ISI/số biên chế) của 4,5 năm cho 29 viện thành viên trong Viện KH&CN Việt Nam, thì các viện hàng đầu có thứ tự là: 1. Toán học là 1,68; 2. Vật lý và điện tử 1,05; 3. Sinh học nhiệt đới 0,83; 4. Hóa học 0,54; 5. Vật lý TPHCM 0,51; 6. Hóa học các hợp chất thiên nhiên 0,50; 7. Khoa học vật liệu 0,45. Các viện khác có chỉ số công bố quốc tế nhỏ hơn 0,3 (trong đó 5 viện chỉ có vẻn vẹn 1 hoặc 2 bài, 3 viện không có bài nào).

ĐHQG TPHCM đã đưa danh sách các bài báo công bố quốc tế ISI cùng các tác giả công khai lên Website. Đây là một việc làm hết sức cần thiết theo thông lệ quốc tế mà các cơ quan khoa học khác ở nước ta cần noi theo.

Trong thống kê của ĐHQG TPHCM có cả hệ số ảnh hưởng tạp chí (IF) của từng bài báo. Theo chúng tôi, nên chia ra các nhóm ngành chính như Bộ KH&CN đang làm là: Toán, lý, tin học, cơ học, hóa, khoa học sự sống, khoa học trái đất và các khoa học liên ngành. Thống kê riêng số bài báo cho từng ngành như vậy và cả chỉ số IF cho từng ngành sẽ có ý nghĩa thực tiễn hơn, do những khác biệt nhất định giữa các ngành.

26% số công bố quốc tế ISI của ĐHQG TPHCM là công bố nội lực (bài báo hoàn toàn của tác giả Việt Nam ). Đây cũng là một tiêu chí quan trọng, vì tỷ lệ công bố nội lực của chúng ta hiện rất yếu so với quốc tế và các bài báo nội lực hoàn toàn là bản quyền lao động sáng tạo của khoa học Việt Nam, thể hiện rõ hiệu quả của chính sách KH&CN quốc gia. Nếu xét thưởng cũng nên chú ý tới điểm này (Hàn Quốc chỉ xét thưởng cho tác giả chính của bài báo đăng tạp chí quốc tế uy tín), vì một thực tế hiện nay là các tác giả bài báo cộng tác thường được tài trợ từ các cơ sở nước ngoài (qua học bổng, tiền lương, phương tiện làm việc), còn các tác giả bài nội lực thì có nhiều khó khăn và nhận được rất ít hỗ trợ trong nước.

Cùng với số sáng chế, bài báo công bố quốc tế của từng ngành, từng đơn vị, chúng ta cũng nên quan tâm thống kê cả số người có công bố quốc tế, số người có năng lực công bố quốc tế bằng chính nội lực của mình. Các thống kê này cần được cập nhập hàng năm và đưa công khai lên các Website.

Cơ chế tài chính và kiểm soát các nghiên cứu khoa học

Để nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học ở nước ta, mới đây Bộ KH&CN đã có Quyết định số 14/2008/QĐ-BKH&CN ngày 22.12.2008, cho phép áp dụng thí điểmphương thức lập dự toán kinh phí đề tài nghiên cứu cơ bản (NCCB) do Quỹ Phát triển KH&CN quốc gia tài trợ. Theo đó, định mức chi công lao động khoa học đối với các chức danh đề tài (chủ nhiệm đềtài, thành viên nghiên cứu chủ chốt, thư ký khoa học, nghiên cứu sinh, kỹ thuật viên và nhân viên hỗ trợ khác) đã được quy định cụ thể theo hướng khuyến khích các nhà khoa học có năng lực tập trungvào chuyên môn, nghiên cứu vươn tới chuẩn mực quốc tế, đồng thời góp phần đào tạo các nhà khoa học trẻ.

Quy định về NCCB trong khoa học tự nhiên của Quỹ Phát triển KH&CN quốc gia (được ban hành tháng 12.2008) đã quy định rõ, mọi đề tài NCCB phải có công bố quốc tế và điều kiện đối với chủ nhiệm đề tài là phải có kết quả nghiên cứu chuyên ngành phù hợp được công bố trên tạp chí khoa học chuyên ngành quốc tế uy tín trong 5 năm gần nhất. Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu bảo đảm chất lượng đề tài, định hướng đúng cho NCCB thoát khỏi tình trạng dàn trải, kém hiệu quả và tùy tiện của những năm qua.

Quy định cũng đòi hỏi các thành viên các Hội đồng NCCB được chọn là các nhà khoa học tiêu biểu về thành tích công bố quốc tế trong 5 năm gần đây nhất và thường xuyên được chọn lại - Đây là nhân tố mới quyết định đảm bảo việc tuyển chọn, xét duyệt các đề tài được đặt vào những chuyên gia thực sự làm khoa học theo chuẩn mực quốc tế, gạt bỏ được những trở ngại trong quá khứ. Chúng ta vẫn thường phê bình sự bất cập của công tác quản lý, nhưng chưa nhận thấy rõ phần trách nhiệm rất lớn của các cá nhân gọi là “đầu ngành” trong các Hội đồng chuyên môn cũ đối với một số tồn tại hiện nay của khoa học Việt Nam.

Tuy nhiên, để có được những chuyển biến toàn diện và hiệu quả, đối với các đề tài khoa học ứng dụng cấp nhà nước, cấp bộ vốn chiếm phần lớn số kinh phí nghiên cứu ở Việt Nam hiện nay, cũng cần phải có các cải cách tương tự như đối với NCCB: Yêu cầu công bố quốc tế, bằng sáng chế, sản phẩm và công nghệ mới có giá trị thực tế, tài chính minh bạch, đào tạo TS trẻ thông qua nghiên cứu, và nhất là thành lập mới các Hội đồng chuyên môn. Cần phải nhấn mạnh rằng, các công bố quốc tế của chúng ta trong các lĩnh vực ứng dụng, đặc biệt là các công bố từ nội lực là rất yếu so với quốc tế. Theo thống kê của GS Nguyễn Văn Tuấn cho thấy, số công bố nội lực trong lĩnh vực khoa học sự sống (lĩnh vực chiếm tới 1/3 số công bố quốc tế ISI của Việt Nam ) chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ (2%) so với tỷ lệ chung vốn đã nhỏ (20%).

Cần có sự thay đổi mạnh mẽ văn hóa nghiên cứu khoa học ở Việt Nam, đặc biệt là các nghiên cứu ứng dụng, không để ngôn từ “ứng dụng” tiếp tục bị lợi dụng như một mỹ từ để rút tiền của Nhà nước và che đậy cho các sản phẩm không có giá trị hoặc chất lượng thấp chỉ để xếp ngăn kéo. Nghiên cứu ứng dụng, nếu chưa có được các sáng chế, sản phẩm và công nghệ mới có khả năng cạnh tranh trên thị trường, thì phải được công bố dưới dạng các bài báo được thẩm định, để khẳng định nghiên cứu đang đi đúng hướng và các kết quả nhận được (dù có thể chưa thành công như mong đợi) có thể được các đồng nghiệp khác kiểm tra, tham khảo và sử dụng. Trên trường quốc tế, các nhà nghiên cứu ứng dụng, thực nghiệm, mô phỏng số thường có số bài báo nhiều hơn hẳn các nhà lý thuyết, và số các tạp chí khoa học trong các lĩnh vực ứng dụng cũng nhiều hơn hẳn số tạp chí có thiên hướng lý thuyết.

Một ví dụ về nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực cơ học là tính toán dự báo lũ lụt ở Việt Nam . Đây là vấn đề phức tạp, phụ thuộc vào cả mô hình cơ học và các thông số đầu vào như địa hình địa mạo, điều kiện thời tiết. Bởi vậy, sai số dự báo lớn, dù có thể áp dụng mô hình cơ học sai và chưa tối ưu, vẫn có thể đổ lỗi cho lý do khách quan là thiếu dữ liệu đầu vào... Nếu chủ trì không công bố các bài báo được thẩm định quốc tế, chúng ta không có cơ sở để tin rằng họ làm việc nghiêm túc, đã cập nhật được kiến tức tiên tiến, áp dụng đúng phương pháp và có sáng tạo trên cơ sở các dữ liệu hạn chế có được… và người khác có thể tham khảo và yên tâm sử dụng phương pháp, kết quả của họ. So với các công bố lý thuyết thì các nghiên cứu ứng dụng có thuận lợi là riêng các đặc thù địa phương của vấn đề đã giúp đóng góp một phần tính mới cho nội dung bài báo để có thể được nhận đăng quốc tế.

Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân và GS Hoàng Tụy đã phát biểu gần đây, nguồn gốc chính của các yếu kém trong khoa học và giáo dục của chúng ta chính là sự giả dối. Không vượt qua được trở ngại này, chúng ta sẽ không thể tiến lên và hội nhập.

Hỗ trợ nghiên cứu, thu hút, sử dụng và khuyến khích các nhà khoa học có năng lực

Chính sách hỗ trợ tài chính thỏa đáng, xét duyệt và đánh giá khách quan các đề tài nghiên cứu như đã nêu ở trên là yếu tố quyết định hàng đầu trong việc khuyến khích các nhà khoa học có năng lực dấn thân làm khoa học. Việc lập mới các Hội đồng chuyên môn dựa theo thành tích công nghệ và bài báo chuẩn mực quốc tế, trên cơ sở các thông tin mà Trung tâm Hỗ trợ đánh giá KH&CN có trách nhiệm thu thập sẽ tạo được niềm tin cần có.

Hiện nay, một tỷ lệ lớn số công bố quốc tế của chúng ta do các nghiên cứu sinh ở nước ngoài mang lại. Từ việc công bố chung với thầy ở nước ngoài vươn tới tự công bố (nội lực độc lập từ trong nước) là bước tiến lớn của các TS trẻ, mà chúng ta cần có chính sách quan tâm hỗ trợ thích đáng. Họ cần được cấp kinh phí nghiên cứu và tạo điều kiện để được thử thách.

Các nhà quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã bắt đầu đề cập yêu cầu luận văn TS phải có bài báo công bố quốc tế. Tuy nhiên, phải bắt đầu từ đòi hỏi đó cho các chức danh GS, nghiên cứu viên cao cấp, rồi đến PGS, nghiên cứu viên chính, thầy hướng dẫn, trước tiên là trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật. Cần xét ưu tiên phong chức danh, tăng lương trước thời hạn cho các nhà khoa học có thành tích công bố quốc tế, sáng chế và sản phẩm công nghệ mới. Điều này cũng sẽ góp phần thu hút các nhà khoa học trẻ tài năng.

Bước đi của Trung tâm Thông tin KH&CN quốc gia (Bộ KH&CN) trong việc mua bản quyền truy cập điện tử tới hơn 2.000 tạp chí khoa học quốc tế (từ Science Direct) là rất đáng khích lệ, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà khoa học trong nước đăng ký sử dụng (danh sách này sẽ tiếp tục được mở rộng). Đây là cửa sổ không thể thiếu để các nhà khoa học trong nước tiếp cận thông tin khoa học quốc tế.

Đầu tư cơ sở vật chất cho nghiên cứu khoa học là rất cần thiết, nhưng phải đúng người, đúng chỗ để tiền đầu tư thực sự có hiệu quả. Trong đánh giá nhân lực khoa học và hiệu quả đầu tư theo thành tích bài báo và công nghệ theo chuẩn mực quốc tế cần thẩm định các báo cáo kết quả, thô nhất là xem tác giả và địa chỉ bài báo cụ thể có phải là bài nội lực và thực hiện tại Việt Nam hay ở nước ngoài, nhưng chính xác hơn là phải có các nhà chuyên môn kiểm tra nội dung bài và xem có đúng là đã dùng thiết bị ở Việt Nam? Sáng chế cũng có các mức đăng ký trong nước và quốc tế.

Nói tóm lại, chất lượng là vấn đề cơ bản của khoa học Việt Nam hiện nay.

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.
Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.
Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.