Khoa học và công nghệ Việt Nam đang ở đâu?
- Các chỉ tiêu nguồn lực (đầu vào): cán bộ R&D, đầu tư cho R&D…
- Các chỉ tiêu kết quả (đầu ra): số lượng công trình khoa học công bố, số lượng bằng sáng chế đã đăng ký…
- Các chỉ tiêu tác động: số lần công trình khoa học được dẫn chứng…
Đặt vấn đề
Ở nước ta hiện nay, các cơ quan quản lý KH&CN thường nói nhiều về các chỉ tiêu đầu vào (với định nghĩa về cán bộ R&D không rõ ràng) không báo cáo các chỉ tiêu đầu ra theo tiêu chí quốc tế, còn các chỉ tiêu tác động thì được phát biểu một cách tuỳ tiện (thường hay dựa trên lời khen của lãnh đạo, không dựa trên một cơ sở lý luận được chấp nhận nào cả) và được lan truyền theo cách truyền miệng, không có một tài liệu viết nào (thí dụ như “khoa học và công nghệ của ta đã đóng góp 30% cho phát triển nông nghiệp). Sự thực thì sự phát triển KH&CN nước ta, nhìn vào các kết quả đã đạt được, rõ ràng là đáng lo ngại.
Các số liệu lấy từ Việt Thông tin Khoa học (ISI) ở Philadelphia, theo dõi sự phát triển KH&CN ở các nước trên thế giới, cho thấy:
- Xét về số lượng các công trình khoa học công bố trên các tạp chí có uy tín trên thế giới, ta ở sau Thái Lan khoảng 20 năm:
- Xét về chiều hướng phát triển, nếu tiếp diễn tình trạng này, Việt Nam sẽ càng ngày càng thua kém Thái Lan. (Xem TS. Trần Minh Tiến, Tia sáng, số 16 tháng 9, 2003).
Trong khi đã có một số nhà nghiên cứu báo động về tình trạng tụt hậu của KH&CN nước ta nhưng các cơ quan quản lý KH&CN từ thấp đến cao vẫn hoàn toàn dửng dưng, xem nó như chuyện ở đâu! Cách đây mấy năm, khi giúp Ban Thông tin – Tư liệu của Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN biên soạn một tài liệu về các chỉ tiêu phát triển KH&CN, tôi đã cử người đến Trung tâm Thông tin Khoa học của Trung tâm KHTN & CNQG, hiện nay là Việt KH&CN Việt Nam, để xin số liệu về số lượng công trình khoa học của cán bộ Trung tâm Quốc gia này trên các tạp chí quốc tế, kết quả là chỉ duy nhất Viện Cơ học có số liệu. Chúng ta có thể hỏi: Nếu các số liệu như vậy mà không có thì các cơ quan quản lý KH&CN của Trung tâm Quốc gia và cả của Bộ Khoa học và Công nghệ nữa quản lý cái gì? Nói đến R&D mà chúng ta chỉ kể đến đầu vào, không nhắc đến đầu ra (theo tiêu chuẩn quốc tế) thì có khác nào nói đến phát triển kinh tế mà chỉ kể ra dân số, không nhắc đến GDP.
Chỉ tiêu đầu vào
Lại nói về đầu vào, GS.TS Nguyễn Xuân Hãn đã nêu một nghịch lý là, trong khi ta thua kém Thái Lan và các nước khác trong khu vực về số lượng công trình khoa học, thì số lượng tiến sĩ của ta lại đứng đầu bảng! (báo Nhân dân ngày 13/2/2003). Theo GS. Phạm Duy Hiểm, số người làm R&D của ta hiện rất lớn so với Thái Lan: 21.000 so với có 6400 (Tia sáng, số 16, tháng 9/2003). Các con số này có thể khác nhau ít nhiều tuỳ theo nguồn tài liệu, song bản chất của vấn đề vẫn không thay đổi. Như vậy có nghĩa là, rất nhiều người làm R&D của ta không có kết quả nghiên cứu gì hoặc chỉ có những kết quả chưa phải là một điều gì mới mẻ (về ý tưởng, về phương pháp, về độ chính xác của kết quả đo, v.v…) để có thể được các tạp chí quốc tế chấp nhận công bố. Trong khi đó, đơn cử như ở Philippin, để bảo vệ luận án tiến sĩ (Ph.D.), nghiên cứu sinh đã phải có ít nhất một công trình công bố trên các tạp chí quốc tế theo danh mục của ISI (Xem: C.Saloma.AAPPS Bulletin, 8-2003).
Chỉ tiêu đầu ra
Để đánh giá khả năng sáng tạo công nghệ của một quốc gia, số đo cơ bản được sử dụng là số lượng bằng sáng chế được cấp bởi những cơ quan có uy tín trên thế giới (cũng giống như công trình khoa học được công bố bởi các tạp chí có uy tín được ghi nhận bởi ISI), cụ thể là Cục Sáng chế của Mỹ hay có phần dễ dãi hơn là Cục Sáng chế Châu Âu. Vào khoảng năm 1997, số bằng sáng chế được cấp ở Mỹ đối với người Mỹ là 80.295, Nhật: 30.841, Hàn Quốc: 2.359, Xingapo: 120, Trung Quốc: 3.100, Malaixia: 23, Thái Lan: 13, Philippin: 8. Trong các thống kê của Việt Nam, ta chỉ thấy có số liệu về bằng sáng chế của người Việt Nam được cấp ở Việt Nam, lấy thí dụ những năm gần đây: 1995: 3, 1996: 4, 1997: 0, 1998: 5, 1999: 13, 2000: 10, 2001: 7. Tôi có hỏi một vài chuyên gia có quan tâm nhiều đến các số liệu về phát triển KH&CN của Việt Nam thì được biết, hình như ta có tất cả vài bằng sáng chế cấp ở nước ngoài, nhưng không rõ đây có phải là của người Việt Nam đang làm việc ở Việt Nam hay không. Rõ ràng là khả năng sáng tạo công nghệ của ta hiện nay rất yếu. Về mặt này, ta thua Thái Lan còn xa hơn là thua về nghiên cứu khoa học.
Sử dụng chỉ tiêu số lượng bằng sáng chế được cấp ở Mỹ hay ở một nước công nghiệp tiên tiến khác, là để chúng ta biết về trình độ sáng tạo công nghệ, chúng ta đang ở vị trí nào trên thế giới, ở khoảng cách nào đối với những nước đang phát triển trong khu vực Đông Nam Á. Cách tiếp cận này không hề do xem nhẹ các cải tiến kỹ thuật, những đổi mới ít một (incremental innovation) đang hàng ngày xuất hiện mà hiệu quả tích luỹ của chúng trên toàn quốc rõ ràng là không nhỏ bé.
Bằng sáng chế không chỉ là công cụ pháp lý bảo vệ quyền sở hữu của người có phát minh (invention). Nó còn là một nguồn thông tin tin cậy được các hãng sử dụng để tìm ra công nghệ cần thiết cho việc phát triển các sản phẩm và quá trình sản xuất mới. Có công nghệ mà muốn bán, nhà phát minh cần phải nghĩ đến việc xin cấp bằng sáng chế cho nó. Chẳng hạn, Bộ Khoa học và Công nghệ Ấn Độ luôn luôn khuyến khích các nhà phát minh đăng ký sáng chế và sẵn sàng giúp họ bù đắp các khoản chi phí cần thiết (Xem: P.K. Ghosh. J.Sei. & Ind Res. 1996). Nói đến thương mại hoá kết quả nghiên cứu, mà kết quả phát minh chưa xin cấp bằng sáng chế thì trừ một số nhà đầu tư của nước ta, các nhà đầu tư nước ngoài chắc khó có thể nhận mua.
Theo báo cáo của hãng dự báo nổi tiếng RAND biên soạn cho Ngân hàng Thế giới năm 2001, năng lực KH&CN của Việt Nam đang đứng thứ 94 trên thế giới, sau Malaixia (thứ 71), Thái Lan (73), Philippin (80), Xri Lanka (85), Nêpan (86), Burundi (87), Irắc (90), Xiri (92).
Chỉ tiêu tác động
Nếu cho rằng, việc công bố các kết quả nghiên cứu trên các tạp chí quốc tế là không quan trọng, thì như vậy là không hiểu bản chất của hoạt động khoa học. Công bố kết quả nghiên cứu không phải là để khoe tài, mà là để trao đổi với các đồng nghiệp, mong được sự nhận xét của họ (ngoài sự đánh giá ngang hàng – peer review - của những người phản biện của tạp chí). Và nếu được họ sử dụng thì tác giả sẽ thấy rõ thêm giá trị công trình của mình. Người có công trình rõ ràng là muốn công bố nó ở tạp chí có uy tín càng cao càng tốt, với hy vọng được nhiều người chú ý hơn, tất nhiên phải tự lượng sức mình để gửi công trình đến tạp chí nào có thể chấp nhận.
Trong số những vấn đề cần phải nêu rõ về cách thức quản lý KH&CN của nước ta hiện nay thì vấn đề đầu tiên, theo chúng tôi, là sự lộn xộn ngay về các khái niệm cơ sở của quản lý KH&CN. Một thí dụ là sự lẫn lộn giữa những khái niệm cơ bản: study (tạm dịch là khảo cứu, còn nếu dịch là nghiên cứuthì cần nhớ rằng, đó không phải là nghiên cứu khoa học) với research (nghiên cứu). Ở nước ta hiện nay, hai khái niệm này được gọi chung là nghiên cứu và được hiểu rất phổ biến là nghiên cứu khoa học. Theo tài liệu của UNESCO thì đại đa số studies sử dụng các phương pháp luận đã có, chỉ có một số ít có cải tiến phương pháp luận hoặc đưa ra các phương pháp luận mới và như vậy, có chứa những yếu tố của research. Theo tài liệu này: các studies về cơ bản cần được xếp vào mục dịch vụ KH&CN, tức là những công trình được tiến hành đều đặn hàng ngày (routine) để cung cấp những lời khuyên (counselling), và do đó không được kể là R&D. Như vậy, nếu chúng ta muốn nói cùng tiếng nói với UNESCO, tức là hội nhập với khoa học thế giới, thì rất nhiều công trình trong các đề tài nghiên cứu hiện nay, từ cấp cơ sở cho đến cấp quốc gia, cần được xác định rõ, đâu là research và đâu là study (tất nhiên có những trường hợp mà sự phân biệt này không thể dứt khoát và phụ thuộc vào chủ quan của người đánh giá). Nêu vấn đề này, tôi không có ý nói study là ít quan trọng (một study về đánh số nhà ở thành phố là cần thiết để việc đánh số nhà được thực hiện một cách hợp lý. Nhưng sẽ là khôi hài nếu hiểu việc này là research và còn là tiêu cực nếu lại đòi cấp kinh phí từ quỹ nghiên cứu khoa học), mà chỉ muốn nói rằng trong bức tranh KH&CN của ta hiện nay, phần research theo đúng nghĩa của nó (nghiên cứu khoa học thật sự) không ở quy mô như đã tính bằng cách “đếm” số lượng các báo cáo trong các đề tài mà các hội đồng giám định này nọ đã bỏ phiếu từ đạt đến xuất sắc!
Vẽ lại bức tranh nền khoa học nước ta theo đúng tiêu chuẩn quốc tế là sự chẩn đoán cần thiết đầu tiên trước khi bàn đến việc kê đơn bốc thuốc. Tôi xin nhắc lại câu nói của nhà triết học Anh Francis Bacon, ở thế kỷ XVI, đại ý: Từ cái sai có thể xuất hiện chân lý, nhưng từ cái lộn xộn thì không ra cái gì cả(!).
Nguồn: Hiến kíLập pháp, số 7 (66) tháng 1/2006, tr 27