Khoa học và công nghệ phục vụ quản lý nhà nước về biển và hải đảo: Thực trạng và định hướng
Những thành tựu nghiên cứu khoa học biển
Giai đoạn 1981 – 2000: Có 4 chương trình KHCN biển trọng điểm cấp Nhà nước do Viện KHCN Việt Nam chủ trì. Đây là hình thức tổ chức hoạt động KHCN mới ở nước ta, trong đó các hoạt động điều tra, nghiên cứu biển được thực hiện ở quy mô quốc gia, tập trung lực lượng KHCN biển toàn quốc, giải quyết các vấn đề có tầm chiến lược trên phạm vi toàn vùng biển Việt Nam. Việc ra đời các chương trình KHCN biển quốc gia đã khắc phục nhiều hạn chế trước đây, vì các quá trình tự nhiên trên biển là thống nhất có quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Phương tiện điều tra nghiên cứu biển là những con tàu, đồng thời là một phòng thí nghiệm tổng hợp thực hiện các nội dung nghiên cứu khoa học biển.
Kết quả chủ yếu của giai đoạn 1981 – 2000 gồm các sản phẩm là những ấn phẩm khoa học đã được công bố, lưu trữ như: Tập atlat về điều kiện tự nhiên, tài nguyên và môi trường biển Việt Nam và các vùng biển kế cận, tỷ lệ 1/4.000.000 nhà xuất bản Khoa học và Công nghệ 2010; Bản đồ địa chất Biển Đông tỷ lệ 1/1.000.000; Bộ chuyên khảo về Biển Đông, gồm 4 tập Nhà xuất bản KHCN; Bộ sách tổng hợp “Đánh giá tổng hợp kết quả thực hiện các chương trình điều tra nghiên cứu biển cấp Nhà nước 1977 – 2000” được công bố dưới dạng các xuất bản phẩm (gồm 13 tập). Đã xác định được khoảng 10.000/20.000 loài sinh vật ở Biển Đông; Cơ sở dữ liệu biển, hiện lưu trữ tại Viện KH&CN Việt Nam là những kết quả điều tra nghiên cứu biển từ trước đến nay (1930 – 2000).
Về tài nguyên và môi trường:Đã đánh giá về nguồn lợi cá biển ở vùng biển ven bờ; luận chứng khoa học về phát triển du lịch biển là cơ sở cho việc quy hoạch phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020 của Tổng cục Du lịch; đánh giá về tài nguyên sa khoáng vùng biển ven bờ; xây dựng bản đồ hiện trạng xói lở bờ biển Việt Nam và bản đồ phân bố nước dâng, gió bão ben biển Việt Nam phục vụ cho việc quy hoạch phát triển kinh tế biển.
Về xây dựng công trình biển:Một số kết quả nghiên cứu ứng dụng công nghệ quan trọng đã được sử dụng vào xây dựng các tiêu chuẩn quốc gia về công trình biển và thực tiễn sản xuất, bảo vệ chủ quyền, bảo vệ an ninh, quốc phòng, xây dựng công trình biển trên quần đảo Trường Sa và các công trình DK. Hệ thống thông tin tư liệu về địa chất khoáng sản biển, nguồn lợi thủy sản và môi trường là những luận chứng khoa học được sử dụng trong quá trình đàm phán phân định vùng biển Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc, các vùng chống lấn thềm lục địa các vùng biển khai thác chung giữa Việt Nam với các quốc gia láng giềng.
Về xây dựng tiềm lực:Nhờ có hoạt động điều tra nghiên cứu biển theo hệ thống các chương trình KHCN biển đã hình thành ngành KHCN biển Việt Nam với hàng trăm các chuyên gia khoa học có trình độ giải quyết các nhiệm vụ khoa học biển hiện đại, các viện, các trung tâm nghiên cứu biển chuyên ngành được hình thành với các phòng thí nghiệm và các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại (tuy chưa đồng bộ).
Ngành KHCN biển nước ta đã chuyển từ thời kỳ điều tra nghiên cứu phát hiện nguyên nhân, cơ chế của các quá trình biển sang giai đoạn nghiên cứu ứng dụng các công nghệ tiên tiến về dự báo biển (khí tượng thủy văn biển, ngư trường khai thác cá, tiềm năng khoáng sản – dầu khí).
Giai đoạn 2001 – 2010: Đã thực hiện 2 Chương trình nghiên cứu KHCN Biển. Các Chương trình ở giai đoạn này đã chuyển hẳn từ điều tra cơ bản sang nghiên cứu khoa học và ứng dụng vào thực tiễn và đã bám sát các Nghị quyết, Chiến lược của Nhà nước về biển. Các vấn đề đã được đặt ra trong nghiên cứu như công nghệ dự báo biển, trong đó công nghệ dự báo ngư trường, khai thác cá xa bờ; công nghệ dự báo KTTV biển đảm bảo an toàn cho các hoạt động kinh tế, quốc phòng trên biển; công nghệ dự báo lan truyền ô nhiễm dầu và tìm kiếm cứu nạn trên biển. Vấn đề ứng dụng các phương pháp tiên tiến trong nghiên cứu địa chất biển phục vụ nhu cầu tìm kiếm khoáng sản, dầu khí và nghiên cứu các tai biến địa chất liên quan. Vấn đề quy trình công nghệ xây dựng các công trình khai thác dầu khí ở vùng nước sâu. Vấn đề sinh thái, môi trường và quản lý tổng hợp đới bờ. Vấn đề ứng dụng công nghệ tiên tiến trong việc đánh giá mức độ suy giảm các hệ sinh thái biển, mức độ ô nhiễm môi trường nước và môi trường trầm tích đã tác động đến các hệ sinh thái và nguồn lợi sinh vật biển. Vấn đề quản lý vùng biển ven bờ bảo đảm sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội.
Một số kết quả chủ yếu giai đoạn 2001 – 2010 như: Những cơ sở khoa học cho phát triển bền vững và quản lý tổng hợp vùng ven bờ biển – Đây được xem là vùng nghiên cứu trọng điểm có ý nghĩa chiến lược. Kết quả nghiên cứu giúp cho các cấp quản lý hoạch định chính sách quản lý biển (trong đó kết quả nghiên cứu về phân vùng quản lý tổng hợp dải ven biển đã đáp ứng nhiệm vụ đặt hàng của Bộ Tài nguyên và Môi trường). Mô hình quản lý tổng hợp và phát triển bền vững dải ven bờ Tây vịnh Bắc Bộ đáp ứng yêu cầu quy hoạch phát triển vùng kinh tế trọng điểm Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh gắn liền với hành lang kinh tế ven bờ Vịnh Bắc Bộ Việt Nam và Trung Quốc. Mô hình quản lý và phát triển bền vững đới bờ biển các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế đáp ứng mục tiêu quy hoạch và phát triển kinh tế ven biển Bắc Trung Bộ trong sự phát triển của hàng lang kinh tế Đông Tây (Đường 9 – Nam Lào – Miamar).
Chương trình KH&CN Biển giai đoạn 2001 – 2010 đã thu hút đông đảo các chuyên gia khoa học có trình độ cao làm chủ nhiệm đề tài và chủ trì các nội dung chính đền từ 24 viện nghiên cứu và các trường đại học trong nước. Đặc biệt có các trung tâm nghiên cứu khoa học lớn như Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Mỏ - Địa chất, Đại học xây dựng… Các nhà khoa học nói trên phần lớn là những chuyên gia đầu ngành có trình độ và có nhiều kinh nghiệm trong nghiên cứu khoa học biển. Ngoài ra, hàng chục cán bộ khoa học trẻ có trình độ đã được đào tạo trong quá trình thực hiện chương trình KHCN biển. Các phòng thí nghiệm tại các cơ quan chủ trì đã được tăng cường, nâng cấp và trang bị thiết bị mới, hiện đại.
Định hướng công tác khoa học và công nghệ biển
Đẩy mạnh nghiên cứu và hợp tác với nước ngoài ứng dụng khoa học công nghệ phục vụ công tác điều tra nghiên cứu, dự báo các yếu tố biển, trong đó đặc biệt là các yếu tố tự nhiên, tài nguyên, môi trường biển theo hướng phát triển bền vững. Tập trung ưu tiên cho nghiên cứu và ứng dụng công nghệ cao phục vụ trực tiếp công tác điều tra nghiên cứu tiềm năng kinh tế của vùng biển và ven bờ, phục vụ nghiên cứu khoa học, bảo vệ quốc phòng, an ninh trên biển. Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ ở các địa phương để tăng hiệu quả đầu tư của nền kinh tế, đặc biệt chú trọng tới các vùng đảo xa.
Chương trình KH&CN biển giai đoạn tới sẽ tập trung vào các mục tiêu: Xác lập và cung cấp các luận cứ khoa học cho việc hoạch định và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về biển và khung thể chế quản lý tổng hợp và thống nhất về biển, vùng ven biển và hải đảo, bảo vệ chủ quyền quốc gia đối với các vùng biển và hải đảo của Việt Nam; cung cấp luận cứ khoa học cho công tác quy hoạch khai thác, sử dụng (quy hoạch không gian) biển, vùng ven biển và hải đảo phục vụ phát triển kinh tế biển, đảo, vùng ven biển hiệu quả và bền vững.
Ứng dụng có hiệu quả các giải pháp khoa học và công nghệ mới, tiên tiến trong dự báo, giám sát, điều tra tài nguyên, môi trường, phòng tránh thiên tai trên biển, đảo. Chú trọng triển khai KHCN biển liên quan đến vùng nước sâu và xa bờ nhằm kết hợp giữ vững an ninh chủ quyền của đất nước.
Mở rộng quy mô hợp tác quốc tế trong nghiên cứu một số vấn đề quan trọng của Biển Đông nhằm nâng cao giá trị khoa học và thực tiễn của các sản phẩm được tạo ra, tạo một bước chuyển biến mới về công nghệ nghiên cứu biển và nâng cao tiềm lực KHCN biển.








