Khoa học cũng cần ba thứ quân
Thuyết trình về đề tài của mình trong vòng chung khảo cuộc thi “Cải thiện việc sử dụng và bảo vệ nguồn nước tại Việt Nam”
Trong lực lượng vũ trang, dân quân du kích có vai trò vô cùng quan trọng, họ có mặt ở khắp nơi và là những người "động vi lính, tĩnh vi dân", không thoát li sản xuất. Họ đã chứng minh được rằng "yếu có thể thắng mạnh, ít có thể thắng địch nhiều" và điều đó đã dẫn tới "một nước nhỏ mà đánh thắng hai đế quốc to" như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói.
Trong lĩnh vực khoa học, việc sử dụng học sinh phổ thông (trước hết là học sinh trung học phổ thông) làm cộng tác viên cho các đề tài nghiên cứu của các cơ quan khoa học đã được thử nghiệm từ những năm 70 của thế kỷ XX, tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội và đã gặt hái được những thắng lợi ban đầu, cho phép mở rộng tầm nhìn đối với lực lượng học sinh phổ thông. Xin lấy một ví dụ cụ thể để phân tích như sau: Muốn ứng dụng lý thuyết về phân vi lượng đối với cây trồng ở nước nào thì phải tính đến những đặc điểm cụ thể về đất đai, khí hậu, cây cỏ của nước đó, vì vậy phải làm rất nhiều thí nghiệm bên cạnh đối chứng để làm rõ. Khoa Sinh - trường Đại học Sư phạm Hà Nội triển khai đề tài nghiên cứu về phân vi lượng và giao cho Giáo sư Phạm Đình Thái chủ trì. Đề tài phải làm rất nhiều ruộng thí nghiệm có đối chứng nhưng không đủ nhân lực thực hiện. Hồi đó, cả trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã nhất trí với chủ trương "sử dụng học sinh phổ thông" và các trường phổ thông xung quanh Hà Nội cũng hưởng ứng. Vì vậy, đã có học sinh nhiều trường phổ thông tham gia thực hiện đề tài dưới sự hướng dẫn của các trợ lý và sinh viên khoa Sinh. Sau nhiều năm tiến hành, Giáo sư Phạm Đình Thái hoàn thành xuất sắc luận án tiến sĩ khoa học của mình và ra nước ngoài bảo vệ thành công. Nhưng cái lợi lớn là ở chỗ chính cách làm này đã mở rộng tầm nhìn của cả giáo dục và khoa học rằng sẽ nâng cao được hiệu quả hoạt động nếu có sự liên kết chặt chẽ giữa hai ngành với nhau. Đúng như "quy luật trồi lên" (emergency law) của lý thuyết hệ thống đã nói: Nếu hai hệ thống trước đây đứng riêng rẽ mà trở thành hai hệ con của cùng một hệ mẹ thì giữa chúng sẽ trồi lên những nguồn lực mới. Ở đây ta thấy sự kết hợp giữa các cặp hệ thống sau đây: Khoa học và giáo dục, nhà trường với đời sống, đại học và phổ thông. Sự kết hợp này không phải chỉ trên giảng đường, trong sách vở mà ngay trong cuộc sống, trong hoạt động học tập của học sinh. Riêng đối với giáo dục phổ thông, tôi muốn nhấn mạnh đến "tác phong công nghiệp" đã được ghi không biết bao nhiêu lần vào mục tiêu đào tạo nhưng hầu như là ghi cho phái đẹp chứ không phải để làm. Chẳng thế mà bao nhiêu thế hệ học sinh đã tốt nghiệp trường phổ thông rồi vào đời nhưng họ không trang bị “tác phong công nghiệp” mà hầu như chỉ là "tác phong tiểu thủ công nghiệp". Giá như có một công trình nghiên cứu xem "tác phong tiểu thủ công nghiệp" đã làm chậm bước tiến của nước ta như thế nào thì lúc đó chúng ta mới sốt ruột tìm giải pháp để khắc phục.
Trong xã hội ta, sau quân đội thì nhà trường là nơi có tổ chức khá nghiêm ngặt, ít dung thứ những sự tuỳ tiện. Đó là một thuận lợi cho việc rèn "tác phong công nghiệp" trong xã hội. Để tăng thêm sức mạnh cho nhà trường và cũng là để nhà trường vào quỹ đạo mới, cần đưa các hoạt động khoa học và công nghệ hiện đại vào nhà trường phổ thông, vì khoa học và công nghệ hiện đại cũng không dung thứ những sự tuỳ tiện, đại khái mà đòi hỏi sự chính xác, khách quan và tính mới. Nhưng làm cách nào để đưa khoa học và công nghệ vào nhà trường? Ví dụ đề tài về phân vi lượng nêu trên đã làm rõ cách đưa vào với kinh nghiệm là bước đầu chưa nên động đến nội khóa ở trường phổ thông vì sẽ động đến chương trình, sách giáo khoa, mà nên lấy các giờ ngoại khoá và lao động sản xuất để tổ chức, các nhóm học sinh gắn với từng đề tài. Như vậy, không phải chờ xin phép ai mà chỉ cần hiệu trưởng đại học và hiệu trưởng phổ thông nhất trí với nhau. Trong quá trình làm sẽ nảy sinh những tình huống có thể giúp thực hiện những điều mới được bổ sung vào mục tiêu đào tạo như "làm việc theo nhóm", kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thuyết phục và cả những điều nêu ra đã lâu mà chưa làm được gì như "tác phong công nghiệp".
Trong đề tài phân vi lượng đã xảy ra tình huống là trường phổ thông không có cân tiểu ly để cân chính xác đến từng miligam. Nhóm học sinh tham gia đề tài đã không chịu bó tay mà hợp nhau lại bàn bạc và nảy ra sáng kiến đổi mg/lit thành gam/1000 lit, như vậy sẽ không
cần phải dùng đến cân tiểu ly. Nhưng lại xuất hiện khó khăn: làm gì có bình 1000 lít. Nhóm học sinh lại bàn bạc và đi đến quyết định mượn các bể chứa nước của dân. Nhưng muốn mượn được phải có những người giỏi giao tiếp, giỏi thuyết phục. Qua việc thuyết phục người dân, học sinh đã rèn luyện thêm về kỹ năng giao tiếp. Như vậy, nếu đóng cửa trường lại mà giảng thì lời thầy vào tai này sẽ ra tai kia. Dạy kiến thức có thể dùng cách "nói - nghe", còn giáo dục "phong cách" thì khác, phải tổ chức hành động đúng chuẩn mực và phải kiên trì.
Kể từ năm 1985 trở đi, những điều mà trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã làm được ở trên dần sa sút rồi biến mất, không phải vì chủ trương sai mà vì giáo dục xuất hiện nạn luyện thi, dạy thêm, học thêm tràn lan. Bởi dù sao, đối với học sinh và gia đình, "vào được đại học" vẫn là mơ ước cao nhất. Cách chống trả của ngành giáo dục lại bất cập, lúc đầu thì cấm đoán (nhưng thất bại) rồi chuyển sang thoả hiệp, công nhận để quản lý. Nhưng cái đáng quản lý nhất là cách dạy, cách học (tủ, nhồi nhét) thì ngành lại không quản lý được vì cách tiếp cận vấn đề thiếu hệ thống, không nhìn rõ nguyên nhân sâu xa của nạn dạy thêm, học thêm.
Tóm lại, trong lúc khẳng định những thành tích của đất nước trong lĩnh vực khoa học, thì phải thấy những gì chúng ta làm được vẫn còn chậm so với tốc độ phát triển khoa học và công nghệ chung của thế giới. Nhưng chúng ta cũng có nhiều tiềm năng chưa khai thác trong đó có đội quân thứ ba của khoa học và công nghệ. Muốn khai thác hiệu quả phải rất coi trọng luật trồi lên, trong đó có sự hợp tác rộng rãi hơn trước, trùm lên cả trách nhiệm của hai Bộ Giáo dục - Đào tạo và Bộ Khoa học - Công nghệ.








