Khoa học-công nghệ với bảo vệ môi trường: vừa cần chuyên sâu, vừa cần liên ngành
Tính đa chiều của thiên nhiênvà môi trường
Xin hãy ngắm thật kỹ bức ảnh trên đây. Đó là ảnh chụp một trong những ngọn thác đẹp nhất Tây Nguyên (thác Draysap–có nghĩa là thác Khói)trên sông Srepok-Đăk Nông). Nếuhỏimỗi người xem cho biết bức ảnh nói lên điều gì thì sẽ có rất nhiều câu trả lời khác nhau:đó là tấm ảnh về một tiềm năng thủy điện lớn (nhàđầu tưthủy điện); một điểm du lịch xanh và nghỉ dưỡng tuyệt vời (nhà kinh doanh du lịch); vùng này còn nhiều gỗ quý nếu chặt trộm thì rất dễ vận chuyển (một lâm tặc); vùng này chắc còn nhiều thú lớn có thể săn bắn được (một tay săn trộm); còn rất nhiều loài động thực vật quý hiếm (một nhà bảo tồn thiên nhiên); một kho nước khổng lồ có thể đáp ứng nhu cầu tưới vào mùa khô (một nhà nông nghiệp), biểu hiện rõ ràng của vận động địa chất hiện đại và biết đâu cókhoáng sản(một nhà địa chất), đầy tứ thơ (một thi nhân), cảm hứng âm thanh có một không hai (một nhạc sỹ), cô đơn quá! (một người đang yêu),...Do những cách nhìn khác nhau, một ngọn thác dưới cáchtruyvấncủa100 nhà quan sát sẽ là 100 ngọn thác khác nhau. Heizenberg, nhà Cơ học lượng tử hàng đầu thế giới,cho rằng “Điều mà ta quan sát được không phải tự tính đích thực của thiên nhiên mà(chỉ)là cái cách mà thiên nhiên hiện ra dưới cáchtruyvấn của chúng ta”(4). Nói cách khác, thiên nhiên vẫn thế, nó chỉ khác trong cách nhìn của mỗi con người khác nhau.
Môi trường mà trong đó thiên nhiênlà một bộ phậnvốn đa chiều, trong khi mỗi nhà quan sát lại có những hạn chế cá nhân do được đào tạo theo những chuyên ngành khác nhau, do thói quen tư duy khác nhau, do vốn sống khác nhau,...nên đã nhìn ngọn thác với cách nhìn khác nhau và nhận diện những giá trị khác nhau. Các nhà quan sát trên đây đúng hay sai? Tất cả quan sát đều đúng, nhưng tất cả lại đều saivì phiến diện. Ngọn thác có rất nhiều giá trị nhưng mỗi người quan sát chỉ thấy một vài giá trị tức là một vài trong số rất nhiều chiều của nó. Cái mà nhà quan sát này thấy thì nhà quan sát kia lại không thấy. Vấn đề là ở chỗ do có một thế mạnh nào đó trong xã hội mà cách nhìn, cách đánh giá của một cá nhân nào đó, một nhóm nào đó trở nên có tầm ảnh hưởng lớn hơn và được áp đặt cho việc khai thác thiên nhiên .Cùng với sự phát triển vũ bão củakhoa học-công nghệ, người ta ngày càng được đào tạo chuyên sâu, do đó ngày càng nhìn thiên nhiên với con mắtđầy cá tính và không giống ai. Thiên nhiên vì thếrất có thểngàycàng trở nên méo módưới con mắt của người (nhóm người) quan sát. Đây chính là cội nguồn của sự suy thoái thiên nhiênmôi trường do tác động của con người
Yêu cầu bảo vệ môi trường với khoa học-công nghệ
Môi trường là một tổng thể gồm nhiều hợp phần tồn tại bên cạnh nhau và tương tác với nhau. Do tương tác với nhau, chúng tạo ra những tính chất mới. Trong thời đại ngày nay, khoa học-công nghệ phát triển rất nhanh khiến cho công tác đào tạo phải rất chuyên sâu. Thậm chí sâu đến mức mà một cán bộ khoa học biết rất ít hay rất không đầy đủ về lĩnh vực lân cận. Một luận án Tiến sỹ, một bài báo khoa học càng sâu thì càng có giá trị. Do đó tác nghiệp về những lĩnh vực liên ngành như môi trường rất dễ mắc sai lầm. Ví dụ những người bảo dưỡng đường Hồ Chí Minh rất thích trồng cây bìm bôi hoa vàng (còn gọi là cây lá bạc hay lang rừng) trên taluy đường để chống sạt lở. Họ không hề nghĩ rằng cây bìm bôi hoa vàng là một loài thực vật ngoại lai mới xâm nhập vào vùng Sơn Trà- Hải Vân vài chục năm qua và nhanh chóng trở thành một tác nhân hủy hoại thảm rừng cấm bản địa mà hiện nay chưa có biện pháp ngăn chặn hữu hiệu. Các thiệt hại do ốc bươu vàng cho đồng lúa, do bọ dừa Brontispagây hại cho dừa; tác hại của giống lúa golden ricegiàu vitamine A đến xương; tác động nguy hiểm của hóa chất DDT đến sức khỏe con người mặc dù nó là loại hóa chất bảo vệ thực vật và diệt muỗi sốt rét rất hiệu quả,… là một số ví dụ mà ai cũng đã biết.
Trong khi tác nghiệp về bảo vệ môi trường đòi hỏi đồng thời kiến thức chuyên môn hẹp và kiến thức hệ thống tổng hợp, thì các trường đại học hiện nay chỉ cho ra lò những kỹ sư, cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ chuyên ngành hẹp. Nghịch lý này đòi hỏi các chuyên gia bảo vệ môi trường phải hợp tác với nhau, chia sẻ kinh nghiệm cùng nhau, nhưng trên thực tế không phải ai cũng có kỹ năng làm việc theo nhóm và muốn làm việc theo nhóm. Kỹ năng hợp tác là loại kỹ năng mềm, hiện hầu như ở nước ta không có trường nào đủ thời gian để dạy. Việc lập các báo cáo Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) hay báo cáo Đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC) chính là những yêu cầu pháp lý buộc các chuyên gia phải có cái nhìn tổng hợp, liên ngành, phải thấy cả những vấn đề không thuộc chuyên sâu của mình được đào tạo trong nhà trường. Đòi hỏi này là một thách thức khó vượt qua với nhiều chuyên gia. Đó cũng là một trong những lý do không ít báo cáo ĐTM hay ĐMC không đạt chất lượng.
Môi trường không chỉ đòi hỏi cái nhìn tổng hợp và liên ngành, rất nhiều trường hợp nó đòi kiến thức chuyên sâu. Đáng tiếc là khi cần chuyên sâu thì lại rất ít chuyên gia có thể chuyên sâu đủ để đáp ứng yêu cầu thực tế. Một ví dụ nhãn tiền là giới khoa học Việt Nam đã rất vất vả khi xác định thiệt hại do Công ty Vedan Đồng Nai gây ra đối với hệ sinh thái sông Thị Vải. Vụ việc Vedan Đồng Nai xảy ra đã khá lâu mà mức đền bù do bên nguyên đặt ra vẫn chưa làm Vedan tâm phục khẩu phục. Chúng ta cũng chưa có cách gì tính chính xác giá trị thành tiền của các hệ sinh thái để thực hiện việc chi trả dịch vụ hệ sinh thái (PES- Payment for Ecosystems Services) khiến cho các hệ sinh thái lâu nay vẫn “cho không biếu không” người sử dụng, dẫn đến trào lưu tước đoạt sinh thái đối với những cộng đồng sống dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên. Vấn đề bức xúc đến nỗi mãi rất gần đây mới thực hiện được thí điểm việc chi trả dịch vụ sinh thái rừng ở 2 tỉnh Sơn La và Lâm Đồng.
Khi cần sâu thì chưa đủ sâu, nơi cần rộng lại không đủ rộng. Đó là thực trạng khoa học-công nghệ hiện nay trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ở nước ta. Đòi hỏi như vậy có quá đáng không khi mà đào tạo chuyên gia khoa học-công nghệ hiện nay không thể nào vừa rộng lại vừa sâu được? Ngay cả nền khoa học tiên tiến nhất thế giới là Hoa Kỳ cũng vậy. Rất may là chính các kỹ năng mềm của chuyên gia, trong đó có tư duy phản biện, là một rong những cứu cánh cho thực trạng này.
Tư duy phản biện
Vào khoảng những năm 1980 đã xuất hiện một cách tư duy khác nhằm bổ khuyết sự phiến diện của tư duy cá nhân, đơn ngành, đó là tư duy phản biện (critical thinking-CT). Không nên nhầm chữ “phản biện” trong tư duy phản biện với “phản biện” xã hội, với “phê bình”, “phê phán” mặc dù cùng dùng từ căn “critic”. CT khác với phản biện xã hội trước hết vì nó là lĩnh vực tư duy cá nhân và trong một số trường hợp là tư duy nhóm. Vì thế mà sản phẩm của CT chỉ là ý kiến cá nhân hoặc một phần của dư luận xã hội chứ không phải làphản biện xã hội. CT cũng khác với “phê bình”, “phê phán” ở chỗ CT không chỉ phát hiện cái chưa hay, chưa đúng của một ý tưởng mà còn để khẳng định cái hay, cái tốt của một ý tưởng và nâng ý tưởng lên tầm cao hơn. Một số người có lẽ “sợ” dùng chữ “phản biện” nên dịch critical thinking thành “tư duy phân tích”- một cách dịch không có cơ sở nào, cả về ngữ lẫn về nghĩa – tư duy phân tích là công cụ khoa học, còn tư duy phản biện ít nhiều còn gắn với cảm nhận nữa, mà cảm nhậncó thểlà “ngoài khoa học”, có nghĩa là không (chưa?) chứng minh hay bác bỏ được.
Vậy tư duy phản biện là gì? Tư duy phản biện là một quá trình nhận thức, ứng dụng, phân tích, đánh giá, tổng hợp,lượng giá thông tin thu được từquan sát, kinh nghiệm, phản ánh, phân tích nguyên nhân hay truyền thông, là định hướng cho hành động hoặc tranh luậntrên cơ sở phát hiện và tôn trọng những cách nhìn khác với cách nhìn của nhà phân tích(3). Ví dụ trên đây về thác Draysap là một bằng chứng về tư duy phản biện.
Nói cho đơn giản hơn, tư duy phản biện là một quá trình gồm phân tích và đánh giá một thông tin đã có theo các cách nhìn khácvềvấn đềđang xem xétnhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác và đa diện của vấn đề. Tư duy phản biện không chỉ đơn thuần là sự tiếp nhận và duy trì thông tin thụ động. Đó là quá trình tư duy tìm lập luận phản bác lại kết quả của một quá trình tư duy khác để xác định lại tính chính xác và đa diện của thông tin. Tư duy phản biện không chắc đã dẫn đến một kết luận chính xác. Thứ nhất là vì không ai có thểcó toàn bộ thông tin chính xác. Những tin tức quan trọng nhiều khi lại không công khai và có rất nhiều thông tin còn chưa được khám phá hết. Bên cạnh đó, thành kiến và kinh nghiệm cá nhân có thể ngăn chặn việc tập trung, phân tích, đánh giá và truyền đạt thông tin. Tư duy phản biện có thể phân biệt, nhưng không thể tách rời khỏi cảm quan.
Nói gọn lại, tư duy phản biệnlà cách tư duy đa chiều giúp cho mỗi nhà quan sát có được và tôn trọng cái nhìn của nhiều người khác hoặc phát hiện ra những cái nhìn mớivề đối tượng nghiên cứu, khiến cho đối tượng nghiên cứu được nhận diện đa chiều nên đỡ lệch lạc hơn.
Tư duy phản biện- một dạng của kỹ năng mềm -hiện nay được giảng dạy tại hầu hết trường đại học ở các nước phát triển. Ở ViệtNam cho đến nay mới có trường Đại học Hoa Sen TP Hồ Chí Minh tổ chức giảng dạy bài bản.Trong lĩnh vực bảo vệthiên nhiên vàmôi trường,tư duy phản biện nhìn chung bao gồm một số kỹ năng sau đây:(i) Làm rõ nội hàm bề nổi của ý tưởng hay thông tin; (ii) Phát hiện các nghịch lý trong một ý tưởng; (iii)Tìm ra các chiều ngầm, các giá trị ngầm, các quyền lực ngầm trong một ý tưởng; (iv)Tìm ra các mối liên hệ với ý tưởng nằm trong môi trường giao dịch của ý tưởng; (v) Tìm ra các nhiễu lọan tất định hàm chứa mơ hồ trong một ý tưởng; (vi)Tìm ra phương án thay thế hay tình tiết bổ sung để hoàn thiện hơn cho một ý tưởng; (vii) Dự kiến các xung đột khi một ý tưởng được thực hiện và dự liệu giải pháp quản trị(1). Tư duy phản biện giúp cho công tác bảo vệ môi trường đáp ứng hai yêu cầu chuyên ngành sâu và kiến thức liên ngành theo phương thức 2 trong 1. Đó là một thách thức mang tính thời đại vì các lĩnh vực khoa học ngày càng chuyên sâu. Thách thức đó lý giải tại sao bảo vệ môi trường là lĩnh vực gian nan, mặc dù thất bại không ít hơn thành công nhưng không thể không làm.
Chú thích
(1) Nguyễn Đình Hòe, 2010. Tư duy phản biện trong bảo tồn đa dạng sinh học dãy Trường Sơn.http://www.vacne.org.vn/default.aspx?newsid=1243
(2) Critical thinking (Tư duy phản biện)http://vi.wikipedia.org/wiki/T%C6%B0_duy_ph%E1%BA%A3n_bi%E1%BB%87n
(3) Scriven & Paul,2001. Critical thinking.http://unilearning.uow.edu.au/critical/1a.html
(4) Nguyễn Tường Bách. Lưới trời ai dệt.Nxb Trẻ, 2005, tr 217
(5) Thác Draysap. http://www. blog.yume.vn/xem-blog/vietbalo-v...6D9.html








