“Kho báu” đất hiếm mừng và lo
Đất hiếm là loại đất chứa nhiều nguyên tố hiếm, những nguyên tố này có hàm lượng rất rất nhỏ trong mỏ khoáng nên từ “hiếm” là để nói lên điều này.Đất hiếm gồm có 17 nguyên tố,đều là những nguyên tố dạng hiếm có trong bảng tuần hoàn Mendeleev như: Dysprosium (Dy), Erbium (Er), Europium (Eu), Gadolinium (Gd), Holmium (Ho), Lutetium(Lu), Terbium (Tb),... Đất hiếm đã trở thành loại nguyên liệu tối cần thiết cho nhiều ngành công nghiệp mũi nhọn của các quốc gia phát triển.Nó được sử dụng trong nhiều công nghệ caocấpnhư: từmáy tính xách tay, điện thoại di độngđếnxe hơi hybrid…;từ ngành vô tuyến, hàng không, cho tới chế tạo ô tô; từcông nghệ laser đến việc sử dụnglàm chất xúc tác trong công nghệ lọc hóa dầu...Đặc biệt là chúng có nhiều tính chất kỳ diệu khi kết hợp với những nguyên liệu thông thường khác. Chẳng hạn, Europium biến tivi đen trắng thành tivi màu, Erbium giúp cáp quang truyền dữ liệu nhanh và xa hơn. Một số nguyên tố trong đất hiếm được dùng để sản xuất nam châm có kích thước nhỏ nhưng mạnh dành cho ô tô; sản xuất ổ đĩa máy tính, máy phát điện, động cơ và cả hệ thống dẫn đường cho tên lửa. Nhiều nguyên tố khác có tác dụng làm tăng khả năng chịu nhiệt của các cánh quạt trong động cơ phản lực và làm tăng độ sáng của các ống nhòm hồng ngoại dùng để quan sát trong đêm…
Trên thế giới, cácquốc gia có đất hiếmnhư: Trung Quốc (27 triệu tấn, chiếm 30,6% của thế giới), Mỹ (13 triệu tấn, chiếm 14,70%), Australia (5,2 triệu tấn), Ấn Độ (1,1 triệu tấn), Brazil (0,84 triệu tấn)… Tổng trữ lượng tài nguyên đất hiếm toàn cầu ước tính là 99 triệu tấn, sản lượng khai thác hàng năm là khoảng 125.000 tấn.
Đất hiếm ởViệt Nam(khoảng 17 - 22 triệu tấn)phân bổchủ yếu ở5khu vựcthuộcTây Bắcgồmcác tỉnh Lai Châu, Lào Caivà Yên Bái. Tại miền Trung thì cũng có đất hiếm, nhưng chỉ dọc theo ven biển và chủ yếu nằm trong sa khoáng nên trữ lượng không lớn lắm.Lâu nay nước ta cũng có khai thác đất hiếm nhưng công nghệ còn lạc hậu, chủ yếu sử dụng phương pháp thủ công và dẫn đến tổn thất tài nguyên lớn (có những mỏ tổn thất tới 60%),công suất thấp, không tách được hết thành phần nguyên tố hiếm; Việt Nam cũng đã nghiên cứu sử dụng đất hiếm trong các lĩnh vực nông nghiệp, chế tạo nam châm vĩnh cửu, chế tạo hợp kim gang, thép, thủy tinh, bột màu... nhưng vẫn chỉ dừng lại ở quy mô phòng thí nghiệm hoặc qui mô nhỏ.
Hiện nay, Trung Quốc là nước khai thác nhiều nhất, với sản lượng 120.000 tấn mỗi năm, chiếm 97% thế giới. Đất hiếm thật ra không hiếm, nhưng sở dĩ chúng “hiếm” vì công nghệ khai thác và xử lý rất đắt, thậm chí nguy hiểm bởi yếu tố rủi ro rất cao, khả năng gây ô nhiễm trầm trọng cho môi trường vì quặng đất hiếm thường xuất hiện gần các lớp trầm tích có chứa các chất phóng xạ chẳng hạn như thorium hoặc uranium... Do Luật Môi trường còn lỏng lẻo cộng thêm lương công nhân rẽ nên công nghiệp khai thác đất hiếm Trung Quốc cho ra những sản phẩm có giá thành thấp. Do vậy, phương Tây và Nhật lâu nay “nhường sân” khai thác đất hiếm cho Trung Quốc và chấp nhận phụ thuộc mặt hàng chiến lược này, họ sẵn sàng mua nguyên liệu thô giá rẻ để sản xuất ra các sản phẩm công nghệ cao bán lại cho Trung Quốc với giá trị tăng gấp nhiều lần. Một bước đi hết sức thông minh.
Nhưng giờ đây, Trung Quốc đã nhận thức được tầm quan trọng của đất hiếm, nhận thấy được sự tác hại đến môi trường khi khai thác đất hiếm bằng công nghệ lạc hậu nênbắt đầu từ 2012 sẽ ngừng xuất khẩu đất hiếm. Hệ quả là đất hiếm sẽ “hiếm”, giá cả sẽ tăng cao, đó là cơ sở để các nước có nền sản xuất các sản phẩm công nghệ cao như Nhật, Mỹ… khẩn trương tìm nguồn thay thế. Đó chính là “cơ hội vàng” đã đến với nước ta và Nhật là nước tiên phong đến với Việt Nam .
Đây cũng là thời điểm hết sức nhạy cảm, là cơ hội nhưng cũng là một thách thức lớn. Dù biết rằng đất hiếm là tài nguyên quý, là nguồn mang về nhiều ngoại tệ cho đất nước, nhưng cũng biết rằng với trình độ kỹ thuật thấp kém, khai thác không đúng quy trình kỹ thuật sẽ hủy hoại môi trường bằng những nguyên tố độc hại, có tính phóng xạ được sản sinh trong quá trình khai thác; và chúng ta cũng nhận thức được rằng nếu chỉ dừng lại ở việc xuất thô, tức là khai thác xong để bán, sản phẩm không qua tinh luyện thì đất hiếm Việt Nam cũng sẽ đi trên vết xe của Trung Quốc mà họ đã “khai tử” và giá trị của “kho báu: đất hiếm” sẽ chỉ là những đồng ngoại tệ còm cỏi không đủ bù đắp chi phí xử lý môi trường bị ô nhiễm nặng nề.
Mặc dù được chủ đầu tư hứa hẹn, cam kết về công nghệ tiên tiến sẽ được sử dụng trong qui trình khai thác; môi trường sẽ được đảm bảo an toàn, không làm nguy hại đến sức khỏe cộng đồng; mặc dù cơ quan chủ quản công bố mục tiêu của dự án không nhằm xuất khẩu nguyên liệu thô... nhưng sự kiện bùn đỏ ở Bulgari và gần đây nhất là vụ lũ bùn ở Cao Bằng đã “được” Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) nhận trách nhiệm, cho thấy tất cả đều đang ở trước mắt.
Đây cũng là thời điểm để “thử lửa” các nhà tham mưu hoạch định chiến lược với tiêu chí về bản lĩnh, mức độ tỉnh táo, sáng suốt “hiến kế” cho Đảng và Chính phủ đưa ra những quyết sách thích hợp. Và đây cũng là cơ hội để các nhà trí thức đưa ra những ý kiến phản biện khoa học để “Đất hiếm” không phải đối diện với những tình huống gây nhiều tranh luận như “Bauxit Tây nguyên”.
Mừng nhưng còn quá nhiều điều phải lo./.








