Khắc phục căn bệnh hành chính hóa khoa học
Ở nước ta cũng không ngoại lệ. Từ sau khi bắt đầu công cuộc cải cách kinh tế và xã hội, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và khu vực xã hội dân sự phát triển. Đó thực sự là một cuộc biến đổi xã hội vĩ đại. Tuy nhiên, không phải một sớm một chiều mà căn bệnh hành chính hóa các hoạt động xã hội, trong đó có hoạt động khoa học, được khắc phục hoàn toàn.
Bài viết này bàn về những căn nguyên lịch sử dẫn đến căn bệnh hành chính hóa khoa học.
Ngay sau khi giành được chính quyền, Lênin đã xóa bỏ hình thức tổ chức nhà nước kiểu cũ và đưa ra một mô hình tổ chức nhà nước kiểu mới, gọi là Hội đồng ủy viên nhân dân (gọi tắt là Hội đồng dân ủy), có chức năng độc tôn tổ chức điều hành mọi hoạt động trong xã hội, chẳng hạn, Hội đồng dân ủy Nông nghiệp, Hội đồng dân ủy Công - Thương nghiệp, Hội đồng dân ủy Bưu điện, Hội đồng dân ủy Đường sắt1 điều hành mọi hoạt động sản xuất của đất nước Xô-viết, quốc hữu hóa các xí nghiệp của tư bản, xoá bỏ mọi hình thức kinh tế tư nhân.
Sau khi Lênin qua đời, Stalin duy trì hình thức Hội đồng dân ủy một thời gian, tiếp đó đã phục hồi kiểu tổ chức chính phủ với các bộ, về hình thức giống như các mô hình của các chính phủ trước đó, nhưng trên thực chất, các bộ của Stalin đã có sự thay đổi cơ bản, đó là các bộ có hai chức năng: Vừa có chức năng quản lý nhà nước, vừa có chức năng trực tiếp điều hành mọi hoạt động kinh tế và xã hội. Chẳng hạn, Bộ Nông nghiệp vừa quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp, vừa trực tiếp điều hành các nông trường sản xuất nông nghiệp. Bộ Công nghiệp vừa quản lý nhà nước trong lĩnh vực phát triển công nghiệp, vừa trực tiếp điều hành các xí nghiệp công nghiệp. Theo tiến trình phát triển của đất nước, khuôn khổ một bộ công nghiệp không còn đủ sức điều hành toàn bộ nền công nghiệp của đất nước, thì hình thức một bộ công nghiệp ban đầu dần dần được chia nhỏ thành các bộ công nghiệp có chuyên ngành rất hẹp, chẳng hạn, Bộ Năng lượng, Bộ Công nghiệp mỏ, Bộ Công nghiệp thực phẩm.
Hình thức tổ chức nhà nước theo mô hình nói trên của Stalin đã được áp dụng trong tất cả các nước XHCN. Riêng Nam Tư, do thấy những bất hợp lý trong mô hình tổ chức bộ theo kiểu này, đã tách các xí nghiệp ra khỏi các bộ để hình thành kiểu xí nghiệp tự quản, không đặt trong một bộ nào, mà chỉ hoạt động theo pháp luật. Liên Xô đã phê phán gay gắt mô hình mà Nam Tư gọi là CNXH tự quản, hơn nữa, Liên Xô đã xem đó là sự xét lại nghiêm trọng chủ nghĩa Mác - Lênin. Cùng với hàng loạt bất đồng trong quan điểm về mô hình CNXH, Liên Xô đã khai trừ Nam Tư ra khỏi phong trào cộng sản quốc tế.
Ở nước ta, sự hình thành bộ máy của Chính phủ cũng diễn ra hoàn toàn tương tự như Liên Xô, đương nhiên, nó đã vừa kế thừa trực tiếp mô hình của Stalin, vừa kết hợp những kinh nghiệm vận dụng của Trung Quốc, không qua giai đoạn tồn tại một hội đồng dân ủy như thời kỳ đầu của Lênin.
Trong các bộ của Chính phủ tồn tại hai loại bộ: Thứ nhất là loại bộ tổng hợp, làm chức năng quản lý những vấn đề chung của quốc gia, liên quan tới mọi ngành hoạt động kinh tế và xã hội, như Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Bộ Y tế, Ủy ban Khoa học Nhà nước. Thứ hai là loại bộ sản xuất - kinh doanh, như Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp, Bộ Giao thông, Bộ Xây dựng. Loại bộ này vừa làm nhiệm vụ sản xuất - kinh doanh, vừa quản lý nhà nước về chính lĩnh vực đó. Ví dụ, Bộ Lâm nghiệp vừa làm nhiệm vụ nuôi trồng rừng, khai thác lâm sản, vừa làm nhiệm vụ bảo vệ rừng và quản lý nhà nước về toàn bộ hoạt động sản xuất - kinh doanh về lâm nghiệp. Có thể lấy ví dụ về một bộ để thảo luận chủ đề này, chẳng hạn, Bộ Công thương của nước ta.
Bộ Công thương được thành lập ngay từ khi Chính phủ được thành lập theo Hiến pháp năm 1946. Trong các giai đoạn tiếp sau, Bộ Công thương được tách thành hai bộ, Bộ Công nghiệp và Bộ Thương nghiệp. Tiếp đó, Bộ Công nghiệp lại được tách thành Bộ Công nghiệp nặng và Bộ Công nghiệp nhẹ. Các bộ cứ tiếp tục được chia nhỏ, ví dụ, Bộ Công nghiệp nặng lại được chia thành Bộ Cơ khí - Luyện kim, Bộ Điện - Than, Tổng cục Hóa chất (trực thuộc Chính phủ). Cũng giống như mô hình của Liên Xô và các nước XHCN khác, các bộ này vừa làm nhiệm vụ quản lý nhà nước, vừa trực tiếp điều hành các hoạt động sản xuất - kinh doanh.
Chẳng hạn, Bộ Cơ khí - Luyện kim có hai chức năng chủ yếu: (1) Sản xuất các mặt hàng cơ khí và luyện kim, bao gồm cả việc khai thác các mỏ quặng kim loại, và (2) Quản lý nhà nước mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh trong lĩnh vực cơ khí, khai thác các mỏ quặng kim loại và luyện kim, bất kể hoạt động này thuộc bộ nào của Nhà nước.
Đương nhiên, để sản xuất các mặt hàng cơ khí và luyện kim, Bộ Cơ khí - Luyện kim phải thành lập các viện nghiên cứu và các viện thiết kế trong lĩnh vực này. Công việc này diễn ra tại tất cả các bộ gọi là bộ sản xuất - kinh doanh, và một mạng lưới các viện nghiên cứu và thiết kế đã được hình thành, phân bố rộng rãi tại các bộ sản xuất - kinh doanh.
![]() Chúng ta cần lưu ý rằng, ở các nước ngoài khối XHCN, các doanh nghiệp, các hãng đều có các đơn vị nghiên cứu, thiết kế và xưởng thực nghiệm. Họ làm công việc nghiên cứu và thực nghiệm các công nghệ mới và sản phẩm mới, được gọi chung là các tổ chức nghiên cứu và triển khai thực nghiệm công nghệ (viết tắt là tổ chức R&D). Theo số liệu công bố năm 2007, các nước này đã chi cho hoạt động R&D một lượng kinh phí khổng lồ hàng năm để không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của những sản phẩm trên thị trường. Chẳng hạn, Hãng Honda (Nhật Bản) đầu tư 8,41 tỷ USD cho riêng R&D để nghiên cứu và thử nghiệm công nghệ mới và sản phẩm mới, Hãng Toshiba (Nhật Bản) - 3,619 tỷ USD, Samsung (Hàn Quốc) - 6,162 tỷ USD, Hewlett-Packard (Mỹ) - 3,611 tỷ USD, Google (Mỹ) - 2,115 tỷ USD, Siemens (Đức) - 5,06 tỷ USD, Nokia (Phần Lan) - 7,752 tỷ USD. Chỉ tính những khoản đầu tư cho nghiên cứu công nghệ của 7 hãng vừa kể trên, là những hãng sản xuất vài đồ dùng quanh bàn làm việc của chúng ta, bạn sẽ thấy, nó đã xấp xỉ 50% tổng GDP của cả nước ta. Nói như thế để chúng ta có thể hình dung, các bộ sản xuất - kinh doanh của chúng ta cũng giống hệt như ở các nước XHCN trước đây, có hình hài tương tự một hãng, vừa sản xuất, vừa nghiên cứu các công nghệ mới và sản phẩm mới. Tuy nhiên, điều mà các bộ của chúng ta khác biệt hoàn toàn với các hãng nói trên, là những nghiên cứu công nghệ trong các viện thuộc bộ sản xuất - kinh doanh thì không trực tiếp gắn với quyền lợi và nhu cầu cạnh tranh của xí nghiệp, hơn nữa các xí nghiệp sản xuất theo kế hoạch trên giao, chẳng gắn gì với nhu cầu cạnh tranh trên thị trường. Kết quả là, các viện nghiên cứu theo sáng kiến đề xuất của các nhà nghiên cứu với một cấp hành chính nào đó, và nó trở thành kế hoạch trên giao, hệt như trong sản xuất. Toàn bộ hoạt động sản xuất và nghiên cứu phục vụ sản xuất của toàn xã hội đều được thực hiện theo những mệnh lệnh hành chính. Tóm lại, toàn bộ phần giải trình hết sức tóm tắt ở trên, cho phép rút ra một mệnh đề giản đơn như sau: “Sản xuất và những nghiên cứu phục vụ sản xuất đều thực hiện theo một kế hoạch phát ra bằng những mệnh lệnh hành chính”. Riêng đối với hoạt động nghiên cứu khoa học thì có thể tóm tắt như sau: “Nghiên cứu theo kế hoạch trên giao, kết quả nghiên cứu thì giao nộp lên trên và trên giao kế hoạch áp dụng cho xí nghiệp”. Còn kinh phí nghiên cứu khoa học, thì cũng đã có sẵn một mệnh đề nghiêm ngặt: “Lập dự toán nghiên cứu để trình trên duyệt và cấp phát, chi thiếu thì lập dự toán bổ sung để ngân sách cấp bù, các khoản chi thừa hoặc có nguồn thu từ sản phẩm nghiên cứu thì bốc trả lại ngân sách”. Khối nghiên cứu và thiết kế trong bộ, đương nhiên, không thuộc loại sản xuất - kinh doanh, vì nó không sản xuất ra của cải, vật chất, và đương nhiên nó phải được xếp chung với các đơn vị quản lý hành chính của bộ, như các vụ: Kế hoạch, Tài vụ, Tổ chức và nhân sự, nhưng vì các tổ chức nghiên cứu và thiết kế chỉ làm nhiệm vụ chuyên môn, không quản lý ai cả, cho nên nó được gọi là khu vực sự nghiệp, để rồi lại tiếp tục ghép hành chính với sự nghiệp để hình thành một khu vực gọi là hành chính - sự nghiệp nhằm phân biệt với các đơn vị thuần túy làm công việc sản xuất - kinh doanh. Lẽ tự nhiên, mọi chế độ đối xử đối với khu vực này được xếp chung với khu vực hành chính - sự nghiệp, bất kể là, nhiều khi muốn thực hiện những cuộc nghiên cứu công nghệ sản xuất, người nghiên cứu phải lăn mình vào những điều kiện rất khắc nghiệt của sản xuất. Ví dụ, người công nhân mỏ được bồi dưỡng 5 đồng khi làm việc ở công trường, thì người nghiên cứu chỉ được bồi dưỡng 5 hào thôi. Đó chính là lý do làm cho người nghiên cứu không thể dấn thân trong những điều kiện khắc nghiệt của sản xuất. Một điều không thể không nhắc đến, đó là những quan niệm rất cực đoan về sự cách ly mối quan hệ giữa nghiên cứu (được xếp chung với khu vực hành chính) và sản xuất. Tôi nhớ đến hai cuộc làm việc đầy ấn tượng: Một lần với chị Đoàn Thị Nhu, Viện trưởng Viện Dược liệu. Chị than phiền về việc không có cách nào xin được hai kỹ sư trồng trọt. Người ta hỏi chị: “Không thể hiểu được, vì sao mà một viện nghiên cứu dược liệu lại xin kỹ sư nông nghiệp?!!. Họ không thể hình dung rằng, Viện Dược liệu đã cố gắng xây dựng được một vườn trồng cây thuốc nam ở Văn Điển (!) Lần thứ hai, tôi làm việc với anh Nguyễn Mạnh Kiểm, khi đó là Viện trưởng Viện Khoa học và Kỹ thuật Xây dựng (sau này là Bộ trưởng Bộ Xây dựng). Anh than phiền rằng, không có cách nào thuyết minh để xin được một biên chế công nhân. Lý do rất đơn giản: Người ta không chịu nhận biết một điều rằng, ở một viện nghiên cứu công nghệ phải có những xưởng sản xuất thực nghiệm (!) Sự hiểu biết công việc nghiên cứu trong giai đoạn này quả thật kém xa so với tư tưởng tổ chức khoa học của Tạ Quang Bửu và Trần Đại Nghĩa năm 1947, khi các nhà nghiên cứu này thiết kế cơ cấu của Viện Nghiên cứu Quân giới ở chiến khu Việt Bắc, trong cơ cấu tổ chức của Viện đã có xưởng pilot để thử nghiệm những mẫu vũ khí do Viện thiết kế và chế tạo thử nghiệm, và kết quả là đã sản xuất ra những vũ khí đạt trình độ rất hiện đại so với đương thời, làm cho quân đội Pháp phải ngỡ ngàng về trình độ nghiên cứu vũ khí của quân đội kháng chiến Việt Nam2. Khái niệm thông tin với nội hàm như chúng ta hiểu ngày nay mới được khái quát hóa từ năm 1972, sau khi Shanon viết cuốn sách nổi tiếng Lý thuyết thông tin. Thời đó, người ta chưa hình dung được bản chất và tầm quan trọng của công cuộc sản xuất ra thông tin trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, và nhất là vai trò của thông tin trong nền sản xuất hiện đại. Chính vì như vậy, người ta đã xếp hoạt động khoa học vào khu vực gián tiếp cùng với các đơn vị hành chính, để phân biệt với khu vực trực tiếp sản xuất ra của cải, vật chất cho xã hội. Người ta cũng hiểu một cách máy móc quan điểm Marxist cho rằng, chỉ có người công nhân, trực tiếp đứng máy, mới là nguồn lực sản xuất trực tiếp ra của cải, vật chất cho xã hội. Để giải quyết cái bế tắc về chính sách với người nghiên cứu, các nhà triết học, trước hết là ở Liên Xô, đã có sáng kiến giải thích biến tấu câu nói của Marx: “Tri thức là lực lượng sản xuất trực tiếp” thành ra: “Khoa học là lực lượng sản xuất trực tiếp”. Có lần, tôi đã phỏng vấn đùa (mà thật) một nhà triết học Liên Xô, vì sao các bạn lại xuyên tạc câu nói của Marx, biến Marx thành một ông già ngụy biện, vừa xem khoa học thuộc kiến trúc thượng tầng của xã hội, lại vừa ném bùm khoa học xuống tận cơ sở hạ tầng của xã hội, thì tôi nhận được câu trả lời rất hóm hỉnh: “Mấy ông triết học của chúng tôi không ngu ngốc đâu, họ làm công việc đó chỉ với động cơ rằng, khoa học cũng là lực lượng sản xuất trực tiếp, để cũng được ăn cái khoản bồi dưỡng đi thực địa là 5 rúp, chứ không phải là 50 kopeck một ngày. À, thì ra, chỉ vì cái dạ dày mà người ta dám xuyên tạc cả một tư tưởng tuyệt vời của Marx về vai trò của tri thức, bao gồm cả tri thức khoa học và tri thức kinh nghiệm (!) Chẳng thế mà, vào thập niên 70 của thế kỷ trước, Tổng cục Địa chất của Việt Nam cũng đã mời được một chuyên gia kinh tế địa chất của Liên Xô, GS Tkatchenko, đến đọc một loạt bài giảng để chứng minh rằng công việc thăm dò địa chất cũng là hoạt động sản xuất vật chất (chắc là để nhận sự đối xử bình đẳng như đối với lĩnh vực sản xuất vật chất!). Đáng tiếc rằng, trong hệ thống phân loại khoa học của UNESCO, thì hoạt động điều tra địa chất, một hoạt động điều tra cơ bản, được xếp vào loại hình nghiên cứu cơ bản có định hướng (oriented fundamental research), vì nó sản xuất ra những thông tin về quy luật phân bố địa chất, chứ đâu có sản xuất ra một centigram giá trị vật chất nào theo như định nghĩa về giá trị của Marx (!) Toàn bộ câu chuyện này, tôi chỉ muốn dẫn đến những căn nguyên lịch sử đã đẩy cả hoạt động sản xuất và hoạt động nghiên cứu khoa học vào khu vực hành chính. Lịch sử ấy, nếu tính từ Cách mạng Tháng Mười đến nay, đã hơn 90 năm. Công cuộc cải cách khoa học của chúng ta, nếu tính từ thời điểm năm 1981, là năm Chính phủ ban hành Quyết định 175/CP về việc giải tỏa lệnh cấm đoán ký kết hợp đồng trong hoạt động R&D mới chưa đến 30 năm. Nói như thế để thấy rằng, không phải một sớm một chiều, tệ nạn hành chính hóa khoa học sẽ được khắc phục. Sau khi hệ thống XHCN thế giới sụp đổ, một trong những phương hướng cải cách kinh tế của các nước XHCN còn lại là tách các xí nghiệp ra khỏi các bộ quản lý nhà nước, đồng thời cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, xác lập quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp trước hoạt động kinh doanh. Cùng trong xu thế đó, việc Chính phủ ban hành Nghị định 115/2005/NĐ-CP về xác lập quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ công lập là một ý tưởng hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với dòng lịch sử của cải cách kinh tế - xã hội của các nước XHCN. Tuy nhiên, đã hai năm trôi qua, mà tư tưởng tốt đẹp của Nghị định 115 vẫn chưa thực sự đi vào cuộc sống. Chúng tôi đã tổ chức một nhóm nghiên cứu gồm những thành viên từ nhiều tổ chức nghiên cứu khoa học khác nhau, phân tích những bất cập trong việc tổ chức thực hiện và bản thân Nghị định 115. Chúng tôi có đủ căn cứ để hy vọng sẽ tìm được phương hướng hiện thực hóa ý tưởng tốt đẹp của Nghị định 115 vào hệ thống khoa học của nước ta. Triết lý phi hành chính hóa khoa học đã được bàn đến trong Tạp chí Hoạt động Khoa học số tháng 12.2008, với những đóng góp rất quan trọng của Viện Quản lý Khoa học trong hai thập niên 80, 90 của thế kỷ trước, đến nay vẫn còn nguyên vẹn giá trị, và cần được phát triển để tiến những bước xa hơn nữa. Trong loạt bài tới, chúng tôi xin được đề cập vấn đề này chi tiết hơn. _____________ 1 Xem John Read: Mười ngày rung chuyển thế giới, Hà Nội, 1960 (bản tiếng Việt), tr. 196. 2 Hoàng Đình Phu: Từ nhà trường đi vào hai cuộc kháng chiến, Hồi ức, Nxb Quân đội Nhân dân, 2006. |









