Kế sách thu phục nhân tâm của Trịnh Tùng
Từ vị trí ban đầu với tư cách người phò tá họ Lê, nắm toàn bộ binh quyền, Trịnh Tùng đã dần củng cố địa vị chính trị cho họ Trịnh, trở thành nhân vật nắm trong tay toàn bộ quyền lực chính trị, quân sự của đất nước. Để làm nên những kỳ tích như thế, con người Trịnh Tùng ngoài tài năng quân sự kiệt xuất, sự quyết đoán nắm lấy vận mệnh thời cơ, ông còn có ý thức thu phục lòng người. Đây cũng là một trong những yếu tố thể hiện bản lĩnh của người làm chính trị và cũng có thể cọi là một trong những bí quyết thành công của ông. Qua nguồn sử liệu gốc viết về giai đoạn này có thể thấy rõ Trịnh Tùng đã từng có hẳn một kế sách để thu phục nhân tâm, đặc biệt đối với 2 tầng lớp binh lính và dân chúng.
Theo ghi chép của các sách sử, thống lĩnh quân Bắc triều lúc này là Mạc Kinh Điển, một trong những tướng tài có rất nhiều kinh nghiệm trận mạc, số lượng quân Mạc được điều động cho cuộc tấn công là 10 vạn cộng với 700 chiến thuyền. Chính quyền Nam triều đang lâm vào tình thế nguy hiểm. Sách Đại Việt sử ký toàn thưghi rằng ngay trong ngày nhận chức: “Tiết chế Trịnh Tùng dã hội các tướng, mở tiệc úy lạo quân sĩ” (1). Số lượng các tướng về hội họp hôm đó gồm 30 võ tướng và 12 văn thần. Tất cả “đều chỉ trời mà thề, đồng lòng chung sức, ngày đêm bàn kế đánh giặc, chia quân chiếm giữ cửa lũy các xứ, đào hào đắp lũy, đặt phục binh giữ nơi hiểm yếu để phòng quân Mạc” (2). Trong số các tướng đến hội quân khi đó có cả những người đã từng theo Trịnh Cối nhưng không chịu cùng Cối đầu hàng quân Mạc như Lại Thế Khanh, Hoàng Đình Ai, Lê Khắc Thận, Nguyễn Hữu Liêu. Rõ ràng, trong hoàn cảnh nguy ngập, bằng động tác tập hợp và động viên tướng sĩ, tiết chế Trịnh Tùng đã khiến các quan văn võ Nam triều xích lại gần nhau, tướng sĩ đồng lòng kết thành một khối để quyết tâm chống quân Mạc.
Cuối năm 1570 chiến cuộc giữa quân Mạc và quân Lê vẫn ở thế giằng co. Quân Mạc có lực lượng hùng hậu nhưng đối phó với quân Lê đánh theo kiểu kỳ binh cũng rất mệt mỏi. Đầu năm 1571 Mạc Kinh Điển phải rút quân về. Trước khi dốc toàn lực lượng tấn công để chiếm lại Thăng Long, vào dịp Tết Nguyên Đán năm Nhâm Thìn (1592), Trịnh Tùng tổ chức ba quân ăn Tết vui vẻ, động viên tinh thần binh sĩ. Sách Đại Việt sử ký toàn thưghi: “Gặp ngày Tết Nguyên Đán, úy lạo tướng sĩ, hẹn phải thu phục kinh thành. Ba quân vui mừng phấn khởi, đều nguyện báo ơn nước…” (3). Sách Việt sử thông giám cương mụcghi: “Gặp bấy giờ là Tết Nguyên Đán. Trịnh Tùng cho quân nghỉ ngơi, ăn mừng để úy lạo họ, hẹn phải thu phục lấy kinh thành. Các quân ai nấy đều xin sẵn sàng trổ sức” (4).
Mùa thu năm Tân Tỵ (1581) tướng Mạc là Mạc Đôn Nhượng đem quân vượt biển đánh vào vùng Quảng Xương. Tiết chế Trịnh Tùng thống lĩnh quân Lê chống giữ. Sau trận kịch chiến ác liệt quân Mạc đã bị tiêu diệt 600 quân. Số tướng và quân Mạc bị bắt có đến vài trăm người. Trịnh Tùng đã có một quyết định nhân đạo với các tù binh: “mấy trăm người bị bắt đều cấp cho cơm áo thả về quê quán. Mọi người đều thầm cảm ơn. Từ đấy binh uy lừng lẫy. Quân Mạc không dám dòm ngó nữa, cư dân Thanh Hóa, Nghệ An mới được yên nghiệp” (5).
![]() |
Tượng đá các võ sĩ cao 1m95 tại lăng mộ làng Bùi Đảnh (Thanh Hóa). |
Không chỉ đối với quân, trong trận tiến công vào thành Thăng Long quân nhà Mạc do Nguyễn Quyện chỉ huy ở khu vực Cầu Dền bị đánh tan tác, 2 con trai Nguyễn Quyện đều bị chết. “Quyện bị quan quân (Lê) bắt sống. Trịnh Tùng thân hành cởi trói cho Quyện, đối đãi bằng lễ tiếp khách và yên ủi… Quyện hổ thẹn vội phục xuống đất” (7). Có thể thấy rõ Trịnh Tùng đã được những gì sau động thái này. Thiện cảm của người dân là thứ không thể đo đếm được, còn đối với những tướng sĩ đang là thân phận của kẻ chiến bại thì việc mở ra con đường sống - chính là sự lôi kéo có chọn lọc lực lượng về phía mình. Trước mắt họ chỉ có 2 con đường, trở về làm dẫn cũng hướng về triều đình Lê Trịnh, nếu ở lại cũng không tiếc máu xương vì họ Trịnh…
Cuộc chiến Nam - Bắc triều bắt đầu từ năm 1545 đến cuối năm 1592 chấm dứt với thắng lợi của chính quyền Nam triều (Lê - Trịnh). Đây là cuộc nội chiến khốc liệt giữa hai tập đoàn phong kiến, nó đã cuốn hút, lôi kéo, chi phối mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn này. Trong suốt hành trình chiến tranh, nhân tài vật lực bị huy động tối đa, sản xuất bị đình trệ, người dân lâm vào tình trạng đói khổ, tang tóc… Có lẽ ý thức được điều này, kể từ khi nắm trọn trong tay quyền chỉ huy quân đội nhà Lê, trong bất cứ chiến dịch lớn nào Trịnh Tùng cũng luôn quán triệt việc bảo vệ lợi ích của người dân vốn đang từng ngày từng giờ mòn mỏi vì chiến tranh.
Mùa hè năm Đinh Sửu (1577), lúc này Trịnh Tùng đã được vua Lê trao cho quyền lực rất lớn với chức Tả tướng Thái úy Trưởng quốc công, Tiết chế các xứ thủy bộ chư dinh kiêm Nội Ngoại Bình chương quân quốc trọng sự. Các sách sử chép rằng: “Mọi công việc nhà nước đều được tự xử quyết trước rồi sau mới tâu”. Hàng ngày lo điều hành những công việc của triều đình nhà Lê trung hưng, lo chống trả với những cuộc tấn công của quân Mạc, trực tiếp chỉ huy từng trận đánh… nhưng Tiết chế Trịnh Tùng vẫn lo việc binh đao có thể ảnh hưởng tới việc thu hoạch mùa màng của dân. Tháng 5 (1577): “Tiết chế Trịnh Tùng hạ lệnh cho quan lại các xứ Thanh Hóa và Nghệ An đôn đốc dân các xã huyện, hạn từ trước tháng 6 phải kịp thời cày cấy, không được để chậm, phòng khi quân đi qua ảnh hưởng tới nghề nông” (8). Tháng 7 tình hình chiến sự Nam - Bắc triều rất căng thẳng, quân Mạc đang rập rình chuẩn bị tấn công vùng Thanh Nghệ, hòng tiêu diệt Nam triều. Để bảo vệ người dân, giảm bớt những thiệt hại về người và của do chiến tranh mang lại, bằng những biện pháp hành chính quyết liệt, Trịnh Tùng đã: “hạ lệnh cho dân cư các huyện dọc sông xứ Thanh Hóa, thu xếp của cải gia súc, đưa vợ con vào lánh ở nơi hiểm yếu dưới chân núi đề phòng quân giặc đến. Hạ lệnh cho các cửa biển và điểm tuần ở các nơi dọc đường đều đặt pháo hiệu. Nếu thấy quân giặc tới thì lập tức bắn một tiếng pháo hiệu để làm tin, để cho cư dân nghe lệnh, sẵn sàng lánh đi chỗ khác, không để quân giặc giết hại” (9). Các biện pháp để các xã dân trong vùng hỗ trợ nhau bảo vệ của cải và gia súc sơ tán cũng được tính đến cẩn thận: “Lại hạ lệnh cho vùng chân núi các huyện nếu thấy dân xã ven sông đưa trâu bò gia súc chạy đến với xã mình thì phải nghiêm ngặt tuần phòng, nếu có trộm cướp phải đem người đến cứu. Nếu không đến cứu, để mất mát tiền của súc vật của cư dân thì người dân xã ấy phải chia nhau mà đền” (10).
Về phía quân đội Nam triều, với tư cách là người chỉ huy trực tiếp và tối cao, Trịnh Tùng luôn đề cao kỷ luật quân đội và cho đây là cách rèn luyện binh sĩ, bảo vệ người dân. Gần như trước mỗi trận đánh quân Nam triều đều được quán triệt tinh thần: “không được xâm phạm của cải người dân”. Trước khi mở cuộc tấn công quyết chiến dữ dội vào Thăng Long để giảnh thắng lợi cuối cùng, Tiết chế Trịnh Tùng đã lập đàn tế trời đất và các vị Hoàng Đế triều Lê, sau đó làm cuộc hội quân và ra cáo dụ: “Ta vâng mệnh đi đánh kẻ trái phép, vốn để yên dân. Các tướng nên răn cấm tướng sĩ, nghiêm ngặt nhắc lại ước thúc, chấn chỉnh đội ngũ, hiệu lệnh rõ ràng tín thực. Quân đi đến đâu, không được mảy may xâm phạm của dân, không được cướp bóc của dân lành, của cải không phải của giặc thì không được lấy” (11). Sách Việt sử thông giám cương mụcchép cụ thể hơn: “khi đại quân kéo đến bờ tây sông Ninh Giang, Trịnh Tùng ra ba điều buộc quân lính phải tuân giữ:
1. Không được tự tiện vào nhà dân mà hái rau, kiếm củi.
2. Không được cướp của cải, đồ vật và đẵn cây cối.
3. Không được hiếp phụ nữ và giết người vì thù riêng.
Kẻ nào vi phạm những điều cấm trên đây sẽ bị trị theo quân luật.
Ba quân nghe theo lệnh nghiêm chỉnh trẩy đi. Quân trẩy đến đây, nhân dân vẫn an cư ở đó. Họ tranh nhau đem rượu và trâu bò đến đón quan quân” (12).
Được rèn giũa về kỷ luật chiến trường như thế nên: “quân đi đến đâu không mảy may xâm phạm của dân, chợ không thay đổi quầy hàng, mọi người đều yên ổn như cũ, già trẻ trai gái tranh nhau đem trâu dê, cơm rượu, hương hoa đầy đường đón tiếp vương sư” (13). Quân đi đến vùng Sơn Nam , mệnh lệnh lại được nhắc lại: “hạ lệnh trong quân không được mảy may xâm phạm của dân, các xóm ngõ ở dân gian nếu không có việc không được tự tiện vào, ai vi phạm thì trị theo quân pháp” (14). Đến huyện Thanh Oai, khi gặp gỡ dân, Tiết chế Trịnh Tùng nói rõ mục đích tấn công để tiêu diệt họ Mạc khôi phục lại triều Lê vì lợi ích của người dân: “Nhân dân các xứ Tây Nam đều là dân của triều ta, từ lâu đều mắc phải chính lệnh tàn ngược của họ Mạc. Từ nay về sau, ta cho các người đều được đổi mới, sửa bỏ tệ cũ. Bọn các ngươi cứ yên ổn làm ăn, không được sợ hãi. Quân đi có kỷ luật, một lòng thương dân” (15). Với một chủ trương đúng đắn và một kỷ luật nghiêm minh như vậy, quân đội Nam triều đã được người dân phía Bắc hồ hơi đón tiếp và ủng hộ về mọi mặt: “trăm họ vui theo đều nói rằng từ đời Tam đại về sau, nay mới lại thấy quân nhân nghĩa như thế. Người theo về đông như đi chợ. Những người gan dạ và có tri thức, đều vui vẻ đến cửa quân để phục vụ” (16).
Trong dòng họ Trịnh, sau Thái vương Trịnh KIểm, Thành Tổ Triết vương Trịnh Tùng chính là người có công đầu trong việc trung hưng nhà Lê. Nói đến ông xưa nay người ta đều ca ngợi ông là nhà quân sự kiệt xuất, kể từ khi được giao quyền lực đã có 23 năm chinh chiến trực tiếp cầm quân đốc chiến 33 trận luôn giành chiến thắng.
Chú thích
1. Ngô Sĩ Liên và các sử thần nhà Lê,Đại Việt sử ký toàn thư , Nxb KHXH, Hà Nội, 1973, tập 4, tr 155.
2.Đại Việt sử ký toàn thư , sách đã dẫn tập 4, tr 155.
3.Đại Việt sử ký toàn thư , sách đã dẫn tập 4, tr 185.
4. Quốc sử quán triều Nguyễn,Việt sử thông giám cương mục , Nxb Giáo dục, H. 1998, tập 2, tr 187.
5.Đại Việt sử ký toàn thư , sách đã dẫn, tập 4, tr 172
6.Đại Việt sử ký toàn thư , sách đã dẫn, tập 4, tr 182
7.Việt sử thông giám cương mục , sách đã dẫn, tập 2, tr 190
8.Đại Việt sử ký toàn thư , sách đã dẫn, tập 4, tr 168
9.Đại Việt sử ký toàn thư , sách đã dẫn, tập 4, tr 168
10.Đại Việt sử ký toàn thư , sách đã dẫn, tập 4, tr 168
11.Đại Việt sử ký toàn thư , sách đã dẫn, tập 4, tr 185
12.Đại Việt sử ký toàn thư , sách đã dẫn, tập 2, tr 190
13.Đại Việt sử ký toàn thư , sách đã dẫn, tập 4, tr 185
14.Đại Việt sử ký toàn thư , sách đã dẫn, tập 4, tr 185
15.Đại Việt sử ký toàn thư , sách đã dẫn, tập 4, tr 192
16.Đại Việt sử ký toàn thư , sách đã dẫn, tập 4, tr 185