Hướng trường, viện vào nghiên cứu khoa học tầm quốc tế
Trong bảng xếp hạng 500 trường đại học hàng đầu thế giới do Đại học Giao thông Thượng Hải (Trung Quốc) công bố cách đây gần hai năm, số lượng công trình công bố trên các tạp chí quốc tế được xem như một tiêu chí trụ cột bên cạnh các tiêu chí khác về nghiên cứu khoa học.
Điều này không hề hạ thấp các tiêu chí nói lên thành tích đào tạo sinh viên và vị trí của trường đại học trong xã hội. Nó chỉ phản ánh một thực tế là khi nghiên cứu khoa học đạt trình độ cao, nhà trường mới có đủ uy tín để động viên nhiều nguồn lực tài chính trong xã hội, thầy giáo mới đào tạo được nhiều sinh viên giỏi, sinh viên ra trường mới thành đạt, số tiền mà họ mang về cho nhà trường hàng năm ngày càng nhiều..., tức cũng chính là những tiêu chí quan trọng khác nói lên uy tín của một trường đại học hàng đầu trên thế giới.
Trong bối cảnh hiện nay, khi chúng ta đang nỗ lực trong việc xây dựng trường đại học đẳng cấp quốc tế, thì tiêu chí này càng không thể không quan tâm chú ý.
Tạp chí Hoạt động Khoa học số tháng 1.2006 có đăng một bài báo tổng kết kết quả nghiên cứu khoa học của các tác giả Việt Nam được công bố trên các tạp chí quốc tế trong vòng mười năm gần đây.
Đó là những bài báo (article) đăng trên hàng nghìn tạp chí khoa học được tập hợp trong cơ sở dữ liệu của Viện Thông tin Khoa học (ISI), Philadelphia.
Trong mười năm qua, số bài báo khoa học có địa chỉ Việt Nam xuất hiện trên các tạp chí quốc tế tăng từ 204 bài năm 1995 lên 456 bài trong năm 2004, cả thảy có 3.236 bài.
Trong số đó, quá một nửa là về toán và vật lý lý thuyết, hơn 2.400 bài (quá 3/4) là của các tác giả Việt Nam đứng chung tên với người nước ngoài, chỉ có gần 800 bài là "thuần Việt" được thực hiện chủ yếu bằng nguồn nội lực.
Số lượng quá ít ỏi này lại cứ giẫm chân tại chỗ quanh con số 80 bài mỗi năm trong suốt mười năm qua.
Đối với những người làm toán và vật lý lý thuyết có thể rất khó phân biệt công trình do nội lực và công trình đứng chung tên với người nước ngoài.
Song với các ngành thực nghiệm, ứng dụng và công nghệ, sự khác nhau giữa hai loại công trình đó sẽ rất rõ rệt xét về đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí, vai trò của Nhà nước trong việc xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ (KH&CN) cũng như nỗ lực của nhà khoa học vươn lên trình độ quốc tế.
Gần đây, việc xây dựng trường đại học "đẳng cấp quốc tế" đã thu hút sự quan tâm của toàn xã hội.
Khái niệm đẳng cấp quốc tế hơi mơ hồ, song ở đây chắc chắn phải nói đến trường đại học kết hợp đào tạo với nghiên cứu khoa học ở tầm quốc tế. Để nhận diện đúng đắn điểm xuất phát hiện nay của chúng ta trong mục tiêu này cần xem xét kỹ hơn bức tranh nghiên cứu khoa học tầm quốc tế trong 5 năm gần đây ở các trường đại học của chúng ta.
Công trình công bố trong nước và quốc tế
Nghiên cứu khoa học ở Trung tâm Công nghệ Sinh học-ĐH Quốc gia Hà Nội |
Trong số này, có 1.796 bài (80%) do người Việt Nam viết chung với các tác giả nước ngoài, 450 bài còn lại là của tác giả Việt Nam nghiên cứu chủ yếu bằng nguồn nội lực tại các cơ sở trong nước. Số công trình do hợp tác quốc tế tăng theo quy luật hàm mũ, gần gấp đôi sau 5 năm, trong khi đó số công trình do nội lực chỉ quanh quẩn ở khoảng 89 bài mỗi năm.
Số lượng bài báo quốc tế trên đây rất khiêm tốn so với số công trình khoa học công bố ở trong nước.
Theo Sách KH&CN Việt Nam 2004 do Bộ KH&CN xuất bản, tổng số công trình đăng trên các tạp chí và kỷ yếu hội nghị, hội thảo trong nước tăng từ 7.669 bài năm 2003 lên 8.408 bài năm 2004, cao hơn số lượng bài báo quốc tế 15-18 lần. Sự chênh lệch này còn lớn hơn rất nhiều đối với một số ngành như công nghệ và đặc biệt là khoa học xã hội nhân văn (xem bảng 1).
Bảng 1: Số lượng bài báo khoa học công bố trong nước
(Nguồn: KH&CN 2004, Bộ KH&CN)
Ngành | 2003 | 2004 | ||
Số lượng | % | Số lượng | % | |
Khoa học xã hội và nhân văn | 3.628 | 47,3 | 4.345 | 51,7 |
Khoa học tự nhiên | 868 | 11,3 | 702 | 8,4 |
KHCN | 1.495 | 19,5 | 1.312 | 15,6 |
Y dược | 785 | 10,2 | 1.111 | 13,2 |
Nông - Lâm - Ngư | 893 | 11,7 | 938 | 11,1 |
Tổng cộng | 7.669 | 100 | 8.408 | 100 |
Nghiên cứu khoa học tầm quốc tế ở các viện và trường đại học
Tỷ lệ số bài báo quốc tế do nội lực giữa trường đại học và viện nghiên cứu trong 5 năm 2000-2004 là 179/271 (66%).
Nếu xét trong mười năm (1995-2004) thì tỷ lệ này thấp hơn, cụ thể là 257/458 (56%), chứng tỏ các trường đại học đang vươn lên trong những năm gần đây. Nhưng cũng chỉ mới tập trung vào hai lĩnh vực toán và vật lý lý thuyết.
Bảng 2 giới thiệu thành tích của các trường đại học.
Các ngành khoa học ở đây được phân chia dựa theo ISI, trừ trường hợp các nghiên cứu về vật liệu từ và siêu dẫn được ghép vào vật lý, chứ không phải "khoa học vật liệu" như ISI, vì những nhà nghiên cứu về hai lĩnh vực này đều nằm trong các khoa vật lý.
Số bài báo quốc tế về toán và vật lý chiếm 77% tổng số bài báo từ các trường đại học Việt Nam. Số người làm toán và vật lý ở trình độ cao có mặt ở rất nhiều trường đại học, kể cả những trường ít tên tuổi như Sư phạm Quy Nhơn, Đại học Hồng Đức - Thanh Hoá.
Chuyên ngành vật lý thực nghiệm tuy đòi hỏi thiết bị hiện đại và đầu tư kinh phí cao cũng đã có chỗ đứng trên mặt báo quốc tế. Nổi bật nhất là hai phòng thí nghiệm vật liệu từ và nhiệt độ thấp thuộc Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội. Nhưng đại đa số các trường đại học khác vẫn chưa vào cuộc trên các sân chơi quốc tế.
Bảng 2: (Nhấn vào hình)Số bài báo quốc tế/tổng số lần trích dẫn dùng nguồn nội lực từ các trường đại học Việt Nam trong giai đoạn 2000-2004 (Nguồn: ISI)
Bảng 3: Số bài báo quốc tế và tổng số lần trích dẫn dùng nguồn nội lực từ các viện nghiên cứu Việt Nam trong 5 năm 2000-2004 (Nguồn: ISI)
Tên Viện | Số bài | Số lần được trích dẫn |
Viện KH&CN Việt Nam: | ||
Viện Toán | 92 | 96 |
Viện Vật lý (Hà Nội + Tp Hồ Chí Minh) | 53 | 111 |
Viện Cơ | 35 | 38 |
Viện Vật liệu | 17 | 22 |
Viện Công nghệ Thông tin | 5 | 5 |
Viện Công nghệ Sinh học | 4 | 2 |
Viện Sinh học Đà Lạt | 4 | 13 |
Các viện khác thuộc Viện KH&CN Việt Nam | 7 | 6 |
Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam | 21 | 51 |
Các viện Y Dược trong cả nước | 13 | 20 |
Các viện khác trong cả nước | 20 | 3 |
Tổng cộng | 271 | 367 |
Nhìn chung, bức tranh nghiên cứu khoa học tầm quốc tế ở nước ta hiện đang mất cân đối, nghiêng về lý thuyết nhiều hơn thực hành, ứng dụng.
Hai ngành toán và vật lý mạnh hơn hẳn các ngành khác; nhưng ngành vật lý lại cũng chỉ tập trung ở một vài viện nghiên cứu và một khoa của trường đại học; nghiên cứu công nghệ còn quá khiêm tốn, khoa học xã hội và nhân văn chiếm 50% các ấn phẩm công bố trong nước lại hầu như không thấy mặt trên các tạp chí quốc tế...
Nghiên cứu khoa học tầm quốc tế tại các trường đại học còn quá ít so với các viện, hoàn toàn không tương xứng với đội ngũ giảng viên đông đảo và sứ mạng đào tạo nhân lực trình độ cao cho đất nước.
Tập trung nghiên cứu khoa học về các trường đại học tiên tiến, xây dựng ở đó những tập thể nghiên cứu tầm quốc tế, là việc làm sống còn của cả nền giáo dục và KH&CN nước nhà hiện nay. Vì nếu không nghiên cứu khoa học ở tầm quốc tế, đất nước sẽ không có nền giáo dục tiên tiến, trường đại học vẫn cứ tụt hâu.
Và công nghệ, điều mà nhiều người mong mỏi để sớm thoát khỏi tình trạng kém phát triển, cũng chẳng có nốt...
Nguồn: vnn.vn 3/4/2006