Hội Làm vườn Yên Thành (Nghệ An): Thắng lợi nhờ Chỉ thị 42
“Nhà nhà làm VAC - người người làm VAC”
Trước năm 2000, nghề làm vườn chỉ được bà con Yên Thành đón nhận một cách đơn giản, coi là nghề phụ trong gia đình, nên thiếu đầu tư thâm canh. ngay sau khi có Chỉ thị 42, phong trào “nhà nhà làm VAC - người người làm VAC” phát triển rầm rộ. Vườn tạp, ao hoang, chuồng trống được cải tạo. Cơ cấu cây trồng - vật nuôi phát triển theo hướng đa canh, đa dạng hoá sản phẩm, thâm canh tăng vụ. Ở vùng sâu, phần lớn diện tích vườn được trồng các loại rau, màu bổ sung dinh dưỡng cho bữa ăn hàng ngày. Phong trào chuyển vườn từ nhà ra đồng đã trở thành điểm nhấn trong quá trình xây dựng cánh đồng 50 triệu đồng/ha. Ở vùng đồi, từ năm 2000-2005, các cấp Hội đã khai hoang và trồng mới hàng trăm hecta cây ăn quả các loại có giá trị hàng hoá cao. Mô hình kinh tế trang trại, chăn nuôi bò nhốt được nhân dân nhiệt tình ủng hộ, nhiều gia đình đã mạnh dạn vay vốn để sản xuất với quy mô lớn. Tính đến cuối năm 2005, toàn huyện có 92 trang trại đạt tiêu chí; 500ha cây ăn quả, thăng 200 ha so với năm 2000. Phong trào nuôi ong lấy mật được khôi phục sau nhiều năm mai một, toàn huyện hiện có 4.000 tổ ong/200 hộ nuôi. Tổng đàn trâu tăng 3,6%, đàn bò tăng 6,9%, trên 237 ao hồ, sông cụt được các hộ nhận khoán để nuôi trồng thuỷ sản. 37/37 cơ sở Hội phát động phong trào chăn nuôi gia súc, gia cầm theo phương thức công nghiệp, bán công nghiệp. Nhiều hộ đã xây dựng được trang trại chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản và có mức thu nhập khá. Ông Nguyễn Công Giáo (xã Đông Thành) nuôi 35 con bò thịt, thu nhập 60 triệu đồng/năm. Ông Phan Văn Bình (Khánh Thành) nuôi 3.000-4.000 con gà các loại, kết hợp với dịch vụ thức ăn gia súc – gia cầm, thu 45-55 triệu đồng/năm. Trang trại nuôi trồng thuỷ sản của ông Nguyễn Xuân Hùng (Đồng Thành) cho thu lãi 55-60 triệu đồng/năm...
Những cơ sở Hội vững mạnh
Đời sống nâng cao, nên 100% chi hội đã xây dựng được quỹ Hội (thấp nhất 5 triệu đồng, cao nhất 15 triệu đồng); trên 3.000 hội viên tham gia sinh hoạt đầy đủ theo định kỳ. 100% gia đình hội viên tham gia phát triển VAC và VACDD. Nhờ xây dựng ô dinh dưỡng nên tình trạng trẻ em suy dinh dưỡng, bà mẹ mang thai thiếu máu giảm hẳn. Toàn huyện có trên 90% hội viên có mức thu nhập khá, không có hội viên nghèo đói.
Ông Ngô Trí Di, Phó Chủ tịch HLV huyện cho biết, Yên Thành hiện có 37/37 xã có cơ sở Hội với 486 chi Hội, 100% cơ sở Hội có báo cáo hàng tháng. Huyện Hội đã xây dựng được trên 3.000 mô hình VAC-VACDD tại các trang trại và gia trại. Từ năm 2003, Hội đã được UBND huyện hỗ trợ 20 triệu đồng/năm để đảm bảo kinh phí hoạt động; được cấp phòng riêng và cơ sở vật chất để làm việc. Cũng theo ông Di, mặc dù được huyện quan tâm nhưng bản thân người “cầm sào” phải hết sức năng động, sáng tạo. Hàng năm, huyện Hội thường tổ chức các lớp tập huấn cho hội viên, nhờ đó thông tin 2 chiều giữa lãnh đạo Hội và hội viên được trao đổi thường xuyên. Uy tín của Hội nâng cao, UBND huyện giao cho Hội đảm nhận Chương trình trợ giá giống cho nông dân (50-70 triệu đồng/năm). Nguồn giống do Hội cung cấp được bảo hành, đảm bảo về giá cả và chất lượng.
Mục tiêu từ nay đến năm 2010, HLV huyện phấn đấu xây dựng 200 trang trại, giải quyết việc làm cho 3.000 - 4.000 lao động. Xây dựng mô hình vườn nhà, vườn đồng theo quy hoạch các xứ đồng khác nhau. Nhân rộng mô hình VACDD, phấn đấu mỗi hộ gia đình đều xây dựng được những ô dinh dưỡng sạch.
Ông Nguyễn Thế Trung , Uỷ viên BCH Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ Nghệ An khẳng định:
Đây là chỉ thị hợp lòng dân, vì vậy được bà con trong toàn tỉnh hết lòng ủng hộ. Đến nay, kinh tế vườn ở Nghệ An được khẳng định là mũi nhọn của nền nông nghiệp tỉnh nhà, là nguồn thu nhập ổn định, bền vững. Giai đoạn 2006-2010, tỉnh tiếp tục chỉ đạo các địa phương khai thác và phát huy hiệu quả mọi nguồn lực, thu hút đầu tư, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, tăng nhanh giá trị thu nhập trên một đơn vị canh tác. Nâng cao tỷ trọng thu nhập từ chăn nuôi, thuỷ sản, kinh tế vườn, mở rộng diện tích cây nguyên liệu. Khai thác hiệu quả vùng đồi, vùng bán sơn địa. Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm trên thị trường, phát triển chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp...
Nguồn: Kinh tế nông thôn, số 34 (520), 21/8/2006, tr 8








