Học võ và các khoa thi võ ngày xưa
Cho đến trước thế kỷ XVI, việc tiến cử đề bạt quan võ là dựa vào công trạng, thành tích và dòng dõi chứ không phải qua thi cử. Các quan võ giữ trọng trách trong triều đình phần nhiều là những người thuộc hoàng tộc. Năm 1253, nhà Trần cho lập Giảng Võ đường làm nơi dạy dỗ, huấn luyện dành riêng cho con cháu trong hoàng tộc để trở thành võ quan của triều đình. Trần Quốc Tuấn đã soạn ra sách “Binh thư yếu lược” và “Vạn kiếp bí truyền thư” để dạy dỗ, huấn luyện binh pháp cho các tướng sĩ. Đây có thể được coi là những quyển sách giáo khoa về quân sự đầu tiên được một danh tướng biên soạn công phu và đầy đủ theo chuẩn mực thời đó. Chính nhờ có chính sách khuyến khích, đề cao việc học võ, dạy võ, dưới triều đại của các vua Trần đã xuất hiện nhiều bậc danh tướng kiệt xuất, lỗi lạc, có tài thao lược, trí dũng hơn người, cầm quân dẹp giặc lập nên những chiến công hiển hách với ba lần đánh thắng quân Nguyên – Mông. Năm 1721, dưới thời vua Lê Dụ Tông, trường dạy võ đầu tiên đã được lập ra tại kinh đô Thăng Long lấy tên là Võ Học Sở, đồng thời còn đặt ra chức giáo thụ để chuyên lo việc dạy dỗ, huấn luyện các môn võ nghệ, học binh thư, binh pháp. Theo những gì sử sách còn ghi lại, thì chúa Trịnh Cương là người rất coi trọng việc đào tạo các võ quan, võ tướng một cách chính quy. Cũng chính chúa Trịnh Cương là người đứng ra định lại điều lệ thi võ. Theo đó cứ 3 năm lại mở ra một kỳ thi chia làm 2 loại: ở các trấn mở các khoa thi võ cử vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu; tại kinh đô thì tổ chức các khoa thi bác cử vào các năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Các khoa thi đều phải chia làm ba trường, lần lượt hỏi về võ kinh, về các võ nghệ như cưỡi ngựa, bắn cung, múa kiếm, đánh côn quyền, sau cùng mới hỏi về chiến lược và chiến thuật.
Trong các kỳ thi võ cử, đậu cao gọi là Cống sĩ, thứ đến là Biền sinh, sau cùng là sinh viên. Riêng thi bác cử, người đậu cao goi là Tạo sĩ, nếu chỉ thi đậu thấp gọi là Tạo toát. Những người đậu Tạo sĩ ở các khoa thi võ tương đương với tiến sĩ bên ngạch văn.
Năm 1731, chúa Trịnh Giang lại cho sửa điều lệ thi võ, cốt đề cao phần võ nghệ, tài năng mà giảm nhẹ phần văn ký, binh thư sau khi nhận thấy có nhiều người giỏi võ đi thi thường trượt ở bài văn sách.
Cùng với việc lập ra trường học võ, tổ chức các kỳ thi võ bên cạnh các kỳ thi văn, năm 1740, nhà Lê còn cho xây dựng Võ Miếu làm nơi thờ phụng người có công trạng, bên cạnh việc thờ phụng những bậc binh gia lỗi lạc như Võ Thành Vương, Tôn Tử, Quảng Tử…. còn có thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.
Dưới thời các vua Lê, chúa Trịnh trị vì khoảng 60 năm đã tổ chức được 19 khoa thi bác cử lấy đỗ 200 người gồm 60 Tạo sĩ và 140 Tạo toát. Các khoa thi võ tại kinh thành Thăng Long tạm thời bị gián đoạn khi Nguyễn Huệ ra Bắc phò Lê, diệt Trịnh.
Đến thời nhà Nguyễn, do chính sách khẩn hoang mở mang bờ cõi ở phương Nam, nhà Nguyễn càng coi trọng việc đào tạo, tuyển chọn đội ngũ quan lại đặc biệt là võ quan. Năm 1836, vua Minh Mạng ra chỉ dụ nhấn mạnh: “Điều cốt yếu trong việc trị nước là phải làm cả văn lẫn võ. Khoa thi võ từ xưa đến nay chưa từng đặt ra. Nay có những người giỏi giang về nghề võ, dũng cảm, mưu lược nên cần phải mở rộng để thu nạp phong khi nhà nước dùng đến”. Vua Minh Mạng cũng tổ chức các kỳ thi võ được quy định theo 2 bậc: thi Hương võ và thi Hội võ. Năm 1837, khoa thi Hương võ đầu tiên dưới triều đình nhà Nguyễn được tổ chức. Theo lệ, thời nhà Nguyễn các kỳ thi Hương võ tổ chức vào các năm Dần, Tý, Thân, Hợi; mở khoa thi Hội võ vào các năm Tý, Mão, Ngọ, Dậu.
Các khoa thi võ ở kinh đô Huế thường được mở ra vào tháng 7. Các ngày 15, 16, 17 thi kỳ đệ nhất mang xách vật nặng, mỗi tay xách một khối chì nặng đi được hơn 18 trượng thì đỗ hạng ưu, 14 trượng hạng bình, 10 trượng hạng thứ, dưới 8 trượng là hạng liệt. Kỳ đệ nhị thi vào các ngày 19, 20,21 gồm các môn côn, quyền, giáo, mộc. Côn dùng côn sắt loại 30 cân để múa, đâm, đánh nhau. Giáo dùng loại 7,7 thước ta để đâm vào bù nhìn rơm. Kỳ đệ tam thi vào các ngày 23,24,25 thi bắn súng điểu thương. Ngày 27 xướng danh, sát hạch lại và treo bảng. Trong kỳ thi sát hạch, chủ yếu hỏi về Vũ Kinh thất thư gồm Tôn Tử, Ngô Tử, Lục Thao, Tư Mã pháp, Hoàng Thạch Công tam lược… hoặc thí sinh tự cọn một trong thập bát ban võ nghệ (18 loại binh khí chiến đấu).
Trong các khoa thi Hương võ qui định rằng, ba kỳ đều trung là đậu cử nhân võ, trúng hai kỳ gọi là tú tài võ. Đối với các khoa thi Hội, nếu thi ba kỳ đều trúng cho vào trúng cách thi Hội, người nào thông giỏi chữ thì cho vào thi Điện hay thi Đình. Kỳ thi Điện thì một bài văn sách hỏi về vũ kinh và nghĩa sách Từ Tử cũng như việc dùng binh để xét tài năng. Căn cứ vào kết quả của các kỳ thi Điện có số điểm cao theo quy định được gọi là Tiến sĩ võ. Những thí sinh không đủ điểm hoặc đã trúng kỳ thi Hội thì được liệt vào hàng Phó bảng võ.
Các khoa thi võ dưới triều Nguyễn, nhìn chung đã có qui định chặt chẽ và khoa học hơn, tuy nhiên, chuyện gian lận trong thi cử vẫn xảy ra. Vì vậy, triều vua Tự Đức đã có chỉ dụ định rõ việc thưởng, phạt trong các kỳ thi võ. Dưới triều Nguyễn (từ 1802-1884) đã tổ chức tổng cộng 33 khoa thi Hương, 14 khoa thi Hội, 19 khoa thi Đình và 8 kỳ thi Ân Khoa.
Chế độ khoa cử phong kiến ở Việt Nam thực ra còn tồn tại mãi đến năm 1918 mới chấm dứt.