Hoàn thổ sau khai thác bauxit tại Nabalco Pty Limited, Australia
1. Hoàn thổ - giải pháp cơ bản để xử lý mặt đất bị biến đổi sau khai thác bauxit
Nabalco sở hữu mỏ bauxit và nhà máy alumin tại Gove Paninsula thuộc bang Northern Territory- Australia , bắt đầu sản xuất alumin từ 1972. Sản lượng alumin của Nabalco khoảng 2 triệu t/n đòi hỏi lượng nguyên liệu khoảng 5 triệu t/n quặng bauxit. Mỏ bauxit Gove (nằm tại ven biển cực Bắc Australia ) khai thác và cung cấp bauxit cho nhà máy alumin đặt tại cảng biển, cách mỏ chưa đầy 20 km.
Do bề dày của các thân quặng bauxit tại mỏ Gove trung bình chỉ khoảng 3,7 m, nên việc đào xới để khai thác bauxit được thực hiện trên những diện tích chiếm đất rất lớn (hàng trăm ha mỗi năm). Mặt khác, những trữ lượng bauxit nằm trong các vùng đất rộng lớn thuộc sở hữu của người Yolngu (thổ dân), chủ yếu là những rừng cây đặc chủng (thuộc họ tràm), một số rừng cây hỗn hợp với cả một hệ thực vật phong phú tầng thấp. Hệ động vật và côn trùng trong rừng cũng rất đa dạng và mang tính đặc thù địa phương rõ rệt.
Do vậy, để khai thác bauxit, Nabalco phải tuân thủ hệ thống pháp luật liên quan tại Australia và của bang Northern Territory, đồng thời thực hiện nhiều cam kết pháp lý với các chủ đất. Một trong những cam kết đó là hoàn tra đất ở trạng thái ban đầu sau khi kết thúc khai thác. Như vậy khả năng xử lý đất sau khai thác để “chuyển sử dụng vào mục đích khác” hầu như không đáng kể. Hoàn thổ chính là giải pháp cơ bản để xử lý toàn bộ mặt đất đã đào xới sau khi kết thúc khai thác bauxit.
Hoàn thổ ở đây là đưa mặt đất đã bị biến đổi sau khai thác về trạng thái gần như nguyên thuỷ với tất cả các yếu tố của hệ sinh thái tự nhiên vốn có truowcs khi khai thác.
Đối tượng hoàn thổ là các vùng đất đã được sử dụng làm khai trường khai thác bauxit, các khu vực đã được sử dụng làm nơi thải đất đá, bãi thải quặng đuôi, hồ chứa bùn đỏ, hồ chứa bùn oxalat, hồ chứa nước thải, các diện tích đã được sử dụng làm mặt bằng công nghiệp, xây dựng công trình, các tuyến kỹ thuật.... Tuy nhiên các vùng đất đã được sử dụng làm khai trường khai thác bauxit là đối tượng lớn nhất và mang tính thường xuyên của hoàn thổ.
Mỗi năm, tại Gove có khoảng trên dưới 130 ha đất rừng được đưa vào quá trình khai thác bauxit và cũng khoảng chừng đó diện tích được hoàn thổ.
2. Công việc hoàn thổ bắt đầu trước khi bắt đầu khai thác và tiếp tục lâu dài sau khi kết thúc khai thác
Quá trình hoàn thổ không chờ tới khi kết thúc khai thác một khu vực nào đó mới bắt đầu, mà bắt đầu trước khi bắt đầu khai thác bằng sự chuẩn bị và lưu giữ công phu hồ sơ, vật liệu mẫu về đất, nước, các loài sinh vật cũng như bảo quản giống, gen động thực vật tại khu vực dự kiến khai thác để có thể tái tạo chúng một cách gần đúng nguyên thuỷ nhất sau khi kết thúc khai thác. Đây là công việc thực hiện trong khoảng thời gian dài hơn cả đời mỏ, đòi hỏi vận dụng kiến thức chuyên gia, kinh nghiệm người dân địa phương, phương tiện vật chất kỹ thuật, kinh phí và các giải pháp tổ chức hữu hiệu.
Trình tự thực hiện hoàn thổ tại Nabalco có thể khái quát như sau:
a. Trước khi bắt đầu khai thác cần thực hiện công việc chuẩn bị với khu vực sẽ đưa vào khai thác.
- Khảo sát, sưu tầm, nghiên cứu, lập hồ sơ và cất giữ các vật mẫu về đất, nước, các loài sinh vật cũng như giống, gen động thực vật. Công việc này cần được thực hiện sớm hơn 3 năm trước khi bắt đầu khai thác với sự hợp tác chặt chẽ với người địa phương.
- Chặt hết các loại cây tầm cao trong phạm vi mặt bằng khai thác. Các thân cây được đốt tại chỗ làm mẫu cho đất. Các loại thực vật tầng thấp cần được tiếp tục phát triển. Giữ trạng thái mặt bằng như vậy trong 3 năm để ổn định các quá trình sinh hoá trong đất.
- Sau đó, bóc lớp đất màu (Topsoil) và lớp đất phủ (Subsoil) và chuyển tới các vị trí tập kết riêng biệt gần khai trường và bảo quản chúng cho tới khi được sử dụng lại. Mặt bằng đã sẵn sàng cho khai thác.
b. Khai thác bauxit
Tiến hành khai thác bauxit trên các mặt bằng đã được chuẩn bị. Kết thúc khai thác từng khu vực theo kế hoạch. Mặt bằng sau khi kết thúc khai thác được định hình và kết nối với địa hình tự nhiên nhằm tạo điều kiện thoát nước, phong hoá và thẩm thấu.
c. Sau khi khai thác kết thúc cần thực hiện những công việc sau để tái tạo mặt đất gần giống trạng thái nguyên thuỷ
- Sử dụng đất phủ (Subsoil) và đất màu (Topsoil) được cất giữ để trải lại theo thứ tự và độ dày nguyên thuỷ trên mặt đất đã biến đổi sau khai thác.
- Tái tạo hệ thực vật nguyên thuỷ từ những hạt giống đã được sưu tầm, lập hồ sơ và cất giữ trước đây trên mặt bằng sau khai thác đã được trả lại đất phủ và đất màu (gieo trực tiếp hoặc ươm và trồng cây giống).
- Tại các thời điểm thích hợp tương ứng với sự tái tạo hệ thực vật, thực hiện tái tạo hệ động vật nguyên thuỷ bằng cách kết hợp tác động nhân tạo (từ nguồn giống, gen cất giữ) và tác động tự nhiên (sự di chuyển) động vật và sự sinh sôi tự phát của hệ côn trùng).
- Những công việc nêu trên được thực hiện trong khoảng 2 năm.
d. Theo dõi lâu dài bảo đảm các điều kiện cho công tác hoàn thổ thành công
Công tác hoàn thổ không dừng lại ở chỗ tái tạo hệ thực vật và động vật. Phải tiếp tục theo dõi, bao gồm quan trắc và nghiên cứu các biến đổi, đề xuất các giải pháp tiến bộ nhằm bảo đảm điều kiện tối ưu để các hệ thực vật và động vật trên mảnh đất hoàn thổ phát triển bình thường và ổn định, trở về trạng thái gần như nguyên thuỷ với tất cả các yếu tố của hệ sinh thái tự nhiên vốn có trước khi khai thác. Quá trình này thường kéo dài ít nhất 5 năm.
Năm 1997, Trung tâm nghiên cứu CSIRO - Australia đã nghiên cứu đề ra các chỉ tiêu đánh giá mức độ thành công của hoàn thổ, trong đó có chỉ tiêu quan trọng cần được quan trắc như độ luân hồi dinh dưỡng (Nutrient Cycling), độ ổn định đất (Soil Stability), mật độ cư trú của chim (bird Density), các chỉ tiêu về chất lượng nước ngầm... Những chỉ tiêu này được so sánh với các chỉ tiêu tương ứng của các khu rừng nguyên thuỷ xung quanh.
Một vấn đề quan trọng là không thể xảy ra cháy rừng trong các khu vực đang hoàn thổ vì cháy rừng sẽ huỷ hoại sự tái tạo các thành phần hữu cơ và cản trở các hoạt động vi sinh.
Các nghiên cứu của CSIRO tiến hành 1993 và 1997 cũng như nghiên cứu của trường Đại học Northern Territory sau đó đã chỉ ra rằng công tác hoàn thổ của Nabalco đã thành công tốt đẹp trong việc tái tạo các khu rừng họ tràm giống như các khu rừng nguyên thuỷ quanh đó.
3. Thành công của Nabalco đã tái tạo hàng nghìn hecta đất rừng
Trong khai thác bauxt trước hết có sự ràng buộc chặt chẽ với hệ thống luật pháp về tài nguyên và môi trường rất đồng bộ của Australia và bang Northern Territory cũng như những cam kết pháp lý cụ thể của Nabalco với cộng đồng và các chủ đất của người Yolngu (thổ dân). Những người lãnh đạo Nabalco đã nhận thức rất rõ về trách nhiệm pháp lý và giá trị khoa học - kinh tế - xã hội của công tác môi trường nói chung và hoàn thổ nói riêng, coi công tác này là một trong những lĩnh vực trọng yếu nhất và nghiêm túc thực hiện nó. Đội ngũ chuyên gia môi trường Nabalco đủ về số lượng và vị trí, có trình độ chuyên môn cao và kinh nghiệm thực tế phong phú. Công tác đào tạo được thực hiện khá bài bản và rất thực tế. Các phòng thí nghiệm, phòng phân tích, hệ thống quan trắc, phương tiện lưu trữ, bảo quản, phương tiện kiểm tra, hệ thống thông tin... đều được đầu tư hiện đại và thực dụng. Kinh phí cho toàn bộ các hoạt động môi trường và hoàn thổ được tính đủ vào giá thành sản phẩm. Một yếu tố được đặc biệt coi trọng, vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của các thành tựu môi trường là mối quan hệ tốt đẹp giữa Nabalco các bộ lạc thổ dân người Yôlngu.
4. Vài liên hệ với bảo vệ môi trường và hoàn thổ trong khai thác bauxit ở Việt Nam
Khai thác bauxit và sản xuất hydroxyt nhôm với quy mô nhỏ tồn tại ở Việt Nam từ nhiều chục năm nay đã đối mặt với một số vấn đề về môi trường như diện tích chiếm đất, nguồn nước, thải bùn đỏ.. Tuy nhiên do quy mô còn quá nhỏ nên những vấn đề nêu trên có thể chưa thực sự được nhận diện đầy đủ và chưa thực sự bức xúc.
Trước mắt, ở Việt Nam sẽ có những dự án đầu tư khai thác bauxit và sản xuất alumin có quy mô lớn hơn gấp nhiều lần quy mô hiện tại. Vấn đề môi trường cũng sẽ tăng lên theo tỷ lệ thuận với quy mô khai thác và sản xuất alumin.
Khai thác bauxit và giải quyết các vấn đề môi trường và hoàn thổ trong khai thác bauxit là vấn đề khá lớn ở Việt Nam cả về quy mô và công nghệ. Vì vậy, cũng là dễ hiểu khi còn một số nhận thức chưa đầy đủ và thiếu toàn diện cả về mặt công nghệ, kinh tế và xã hội của tác động môi trường trong khai thác bauxit, coi tác động này như một vấn đề thứ yếu sau sản xuất, quan tâm một cách hình thức và có tư tưởng chủ quan, giải quyết thụ động. Tuy nhiên cũng đã có nhiều ý kiến quan tâm một cách có căn cứ và sâu sắc về tác động môi trường do “Sự huỷ hoại môi trường sinh thái sẽ thật khó lường” khi mở rộng quy mô khai thác bauxit.
Những vấn đề chủ yếu đặt ra là: khai thác bauxit quy mô lớn có thể tàn phá đáng kể những diện tích rừng đầu nguồn và thảm thực vật Tây Nguyên vốn đã và đang bị suy thoái, sẽ có tác động góp phần làm thay đổi khí hậu và thời tiết, gây lũ lụt và hạn hán, tác hại nhiều mặt tới các tỉnh Nam Trung Bộ bao gồm cả các tỉnh ven biển; nguy cơ xói mòn đất ở các vùng cao nguyên có liên quan tới khai thác bauxit có thể là một thực tế không dễ khắc phục; cân đối nước ở những khu vực cao nguyên vốn khan hiếm nước giữa nhu cầu nước của khai thác bauxit và nhu cầu nước của địa phương là bài toán mà lời giải còn cần phải kiểm tra; giải pháp hoàn thổ mới chỉ có trên lý thuyết mà chưa thực sự thuyết phục về mặt khoa học và thực tiễn đối với điều kiện cụ thể ở Tây Nguyên.... Đó là những vấn đề mà dù ở mức độ lớn nhỏ nào thì khai thác và chế biến bauxit ở Tây Nguyên cũng phải đối mặt không chỉ trong chốc lát mà kéo dài suốt thời gian nền công nghệ này tồn tại.
Nhưng chắc chắn những gì lo lắng về hậu quả môi trường do khai thác bauxit Tây Nguyên sẽ không dẫn tới kết luận “không thể khai thác và chế biến bauxit Tây Nguyên”. Câu trả lời đúng đắn là “khai thác và chế biến bauxit Tây Nguyên với trách nhiệm cao nhất về cả hiệu quả kinh tế - xã hội và hiệu quả bảo vệ môi trường. Xin nêu một vài ý kiến cụ thể sau:
- Nên đầu tư tập trung có chọn lọc, khẩn trương và dứt điểm từng bước mà không nên đầu tư ồ ạt, nóng vội. Đầu tư ồ ạt và nóng vội sẽ có nhiều cái bị bỏ qua và có nhiều khiếm khuyết. Một trong những cái dễ bị bỏ qua là vấn đề môi trường.
- Cần tính toán cân đối giữa qui mô, mật độ khai thác và hậu quả môi trường. Có thể phải chấp nhận qui mô một mỏ không nên quá lớn, không nên cùng một lúc khai thác quá nhiều mỏ bauxit và rải ra nhiều nhà máy alumin. Vấn đề địa điểm nhà máy alumin cũng nên được tính toán cụ thể không những từ góc độ kinh tế - kỹ thuật mà cả từ góc độ môi trường, không nên quyết định theo cảm tính.
- Bảo đảm ứng dụng công nghệ hiện đại trong cả khai thác bauxit, sản xuất alumin và công nghệ xlý môi trường. Trong đó cần đầu tư tốt nhất cho công tác hoàn thổ theo quy trình và những kinh nghiệm tiên tiến. Tất cả những nội dung trên được nghiên cứu và thể hiện đầy đủ, chuẩn xác và khả thi trước kết trong các dự án đầu tư và báo cáo tác động môi trường cũng như trong toàn bộ các bước tiếp theo.
- Trong khuôn khổ hệ thống pháp chế chung, cần xây dựng ngay hệ thống pháp chế mang tính đặc thù cho khai thác và chế biến bauxit ở cấp ngành và cấp địa phương làm công cụ và chuẩn mực bảo đảm hiệu quả tối đa trong cả khai thác, chế biến bauxit và bảo vệ môi trường. Cần thiết phải có những cam kết pháp lý của chủ đầu tư với Nhà nước và cộng đồng địa phương về trách nhiệm của chủ đầu tư, đặc biệt là trách nhiệm hoàn thổ và giảm thiểu tác hại môi trường.
Mặc dầu phần lớn các điều kiện kinh tế - xã hội có liên quan tới khai thác và chế biến bauxit ở Việt nam và ở Australia khá khác nhau, nhưng có thể liên hệ và học hỏi nhiều điều từ những thành công về giải quyết các vấn đề môi trường và hoàn thổ tại Northern Territory.








