Hình học vi phân và nụ cười tươi sáng
Cách đây chưa lâu lắm, tôi có dịp đến nước Italy, chiêm ngưỡng những công trình kiến trúc nguy nga, tráng lệ của một trong những nền văn minh cổ đại và trung đại rực rỡ nhất thế giới như đấu trường Colosseo, đại giáo đường và quảng trường San Pietro ở Vaticano (ta quen gọi theo tiếng Anh, tiếng Pháp là Vatican) hay thành phố trên bến dưới thuyền xinh đẹp Venezia (tức Venice/Venise)...
Tuy nhiên, không phải là một khách lãng du quen mải mê bôn tẩu hải hồ, mà là nhà báo chuyên viết về khoa học “khô khan”, mục đích chính trong chuyến đi Italy của tôi lần ấy là được đặt chân đến hai trung tâm khoa học nổi tiếng mà từ lâu mình hằng mong đợi: Trung tâm Quốc tế Vật lý lý thuyết (ICTP) và Viện Hàn lâm Khoa học Thế giới thứ ba (TWAS). Cả hai đều đặt trụ sở tại Trieste, một thành phố ở miền Bắc Italy giáp Nam Tư cũ (nay chia thành Slovenia và Croatia), nằm bên bờ vịnh Adiatico xanh biếc.
Trong nhiều năm, người đứng đầu cả hai trung tâm khoa học ấy là nhà bác học Abdus Salam, người Anh gốc Pakistan, được tặng Giải thưởng Nobel về vật lý năm 1979. Tiến sĩ Nguyễn Mộng Giao và tiến sĩ Nguyễn Văn Kính đón tôi ở sân ga xe lửa. Chúng tôi cùng lên xe buýt về ICTP cách nhà ga khoảng 8 km, rồi gặp gỡ tiến sĩ Nguyễn Bá Ân, một nhà vật lý đẳng cấp quốc tế, và các nghiên cứu sinh trẻ Hoàng Anh Tuấn Kiệt, Nguyễn Văn Toàn, Nguyễn Ngọc Hòa Thịnh, Nguyễn Thị Hòa Thuận...
Kỷ niệm về chuyến đi khá nhiều. Nhưng, trong bài báo ngắn này, nhân Ngày 8-3, tôi chỉ muốn ghi lại đôi điều về “nhân vật nữ” của mình, về “dấu ấn” mà Lê Hồng Vân để lại tại Trieste.
Giáo sư G. Ghihardi, ở ICTP, cho tôi biết: Từ ngày thành lập trung tâm cho tới những năm gần đây, chỉ có một nhà khoa học nữ duy nhất trong tất cả các nước đang phát triển được tặng Giải thưởng của ICTP, hơn nữa, lại do chính tay Abdus Salam, một “vòm đại thụ trong khu rừng vật lý lý thuyết thế giới”, trao cho. Người phụ nữ ấy đến từ Hà Nội: chị Lê Hồng Vân. Như để “minh họa” cho lời khẳng định của mình, giáo sư đưa tặng tôi cuốn People and Places(Con người và Xứ sở), trong đó có in một bài viết dài, kín hai trang khổ nhỡ, về “sự kiện” đáng ghi nhớ nói trên, cùng tấm ảnh ghi lại quang cảnh buổi lễ trao giải thưởng.
Tôi còn nhớ, trên tờ báo Triestedạo đó, phóng viên người Italy P. Pagan đã cho in một bài ghi nhanh tường thuật tỉ mỉ buổi trao Giải thưởng của ICTP với nhan đề: Hình học và nụ cười từ Hà Nội đến Trieste. Qua bức ảnh đăng kèm bài báo, Hồng Vân hiện lên mảnh mai, tươi tắn, trông quá trẻ, y như một cô sinh viên mới vào đại học...
Tôi gặp Lê Hồng Vân lần đầu khi Vân đang học lớp 8 Khối Phổ thông chuyên toán Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Khối THPT chuyên toán - tin Trường Đại học Khoa học tự nhiên thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, Đơn vị Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới). Thuở ấy, Vân là một nữ sinh nhí nhảnh, giỏi toán nhưng cũng hay ca hát, làm thơ. Vân là con thứ hai của bác Lê Văn Giạng, nguyên Thứ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp (Bộ trưởng thuở ấy là giáo sư Tạ Quang Bửu). Bác Giạng chỉ có ba cô con gái: Lê Hoàng Lan, Lê Hồng Vân và Lê Ngọc Mai.
Theo chỗ tôi biết, thì hiếm có gia đình nào ở nước ta hiện nay mà cả ba cô con gái đều thành đạt như ba “khuê tú” nhà bác Giạng: Lê Hoàng Lan là tiến sĩ sinh học, Lê Hồng Vân - tiến sĩ khoa học toán học, Lê Ngọc Mai - tiến sĩ ngữ văn.
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương từng đau đớn thốt lên khi đề thơ ở đền Sầm Nghi Đống: “ Ví đây đổi phận làm trai được/Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?”. Trong gần một nghìn năm phong kiến tự chủ, ở nước ta, phụ nữ không được quyền đi thi. Trên các tấm bia đá ở Văn Miếu (Hà Nội) cũng như Văn Thánh (Huế) không hề có dòng nào khắc họ tên một người phụ nữ! Cách mạng Tháng Tám đã đổi thay số phận nữ giới Việt Nam. Cho nên trong nhà bác Giạng mới có một nữ tiến sĩ khoa học, hai nữ tiến sĩ (học vị tiến sĩ khoa học có những tiêu chí cao hơn nhiều so với học vị tiến sĩ).
Tôi còn nhớ, trong một bài báo in trên tờ Văn Nghệ, nhà Việt Nam học người Nga rất nổi tiếng, viện sĩ Nikulin, đã nhận xét: Việc nhà nữ toán học Lê Hồng Vân bảo vệ thành công luận án tiến sĩ khoa học toán học tại Đại học Lomonosov, trường đại học danh tiếng nhất Liên Xô (cũ), khi mới 28 tuổi, đáng coi là một “hiện tượng” thể hiện tài trí của nữ giới nói chung cũng như của phụ nữ Việt Nam nói riêng.
Cho đến nay, ở Việt Nam mới có ba nữ tiến sĩ khoa học toán học: Hoàng Xuân Sính, Lê Hồng Vân và Nguyễn Thị Thiều Hoa.
Lê Hồng Vân cũng đã từng được tặng Giải thưởng của Hội Toán học Moscow, nơi hội tụ nhiều nhà toán học hàng đầu thế giới.
Những năm gần đây, chị sống với chồng, anh Karsten Friztsche, tiến sĩ di truyền học, và hai con ở Leipzig (Đức). Chị quen anh trong những tháng năm trẻ trung sôi nổi, cùng theo học Đại học Lomonosov trên đỉnh đồi Lênin rợp bóng táo, bồ đề, bạch dương, hoàn diệp liễu...
Nguồn: nhandan.com.vn 8/3/2006