Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ bảy, 31/12/2011 19:52 (GMT+7)

Hiểu thế nào về nội dung Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc

Một là, nội dung về tìm kiếm giải pháp cơ bản lâu dài cho vấn đề Biển Đông nêu tại điều 2 của Thỏa thuận đã xác định căn cứ vào luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 mà cả Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên để giải quyết các vấn đề tranh chấp ở Biển Đông. Đây là một nội dung đặc biệt quan trọng vì nó sẽ là cơ sở pháp lý để hai bên đi vào trao đổi giải quyết vấn đề trên biển. Nếu hai bên tuân thủ nghiêm túc nguyên tắc này thì nhất định sẽ tìm ra được giải pháp công bằng hợp lý mà hai bên có thể chấp nhận được cho các vấn đề tranh chấp ở Biển Đông.

Trong điều 2 của Thỏa thuận cũng nêu rõ "cần tôn trọng đầy đủ các chứng cứ pháp lý” nghĩa là những bằng chứng, tài liệu mang tính pháp lý sẽ được lấy làm cơ sở chính để giải quyết các tranh chấp, còn các yếu tố khác như lịch sử, địa hình... sẽ được xem xét như một yếu tố bổ trợ trong quá trình giải quyết tranh chấp. Điều này hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế trong việc giải các tranh chấp về biên giới lãnh thổ trên thế giới. Thực tiễn giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ cho thấy yếu tố lịch sử cùng với các yếu tố liên quan khác như địa hình, quản lý trên thực tế chỉ được tính đến một khi các chứng cứ pháp lý chưa rõ ràng. Với nội dung này thì những văn bản pháp lý về chủ quyền của các Nhà nước phong kiến Việt Nam như các Châu bản, Sắc chỉ... sẽ là những tài liệu hết sức quý giá khi giải quyết vấn đề quần đảo Hoàng Sa vì đây là những tài liệu thể hiện rõ sự quản lý của Nhà nước ta đối với quần đảo Hoàng Sa. Yếu tố lịch sử ở đây không có nghĩa là nói về yêu sách "đường lưỡi bò” của Trung Quốc vì trong lịch sử chưa bao giờ Trung Quốc có sự quản lý trên thực tế đối với "đường lưỡi bò”, hơn thế nữa "đường lưỡi bò” của Trung Quốc hoàn toàn không có cơ sở pháp lý và không nhận được sự ủng hộ của bất cứ nước nào.

Hai là, điều 3 của Thỏa thuận nêu rõ "trong tiến trình đàm phán vấn đề trên biển, hai bên nghiêm chỉnh tuân thủ thỏa thuận và nhận thức chung mà lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc và tinh thần của "Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC)”. Nội dung này có ý nghĩa quan trọng đối với việc duy trì hòa bình ổn định ở Biển Đông. DOC là văn kiện quan trọng được ký kết giữa ASEAN và Trung Quốc, trong đó đã đưa ra nhiều quy định (gồm: tôn trọng tự do hàng hải và tự do bay ở Biển Đông; kiềm chế các hoạt động có thể làm phức tạp thêm tranh chấp và ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định; cam kết tăng cường nỗ lực xây dựng lòng tin; có thể tìm kiếm và tiến hành các hoạt động hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trong khi tìm kiếm giải pháp toàn diện lâu dài cho vấn đề tranh chấp ở Biển Đông và quan trọng nhất là quy định về việc không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực ở Biển Đông) mà các bên liên quan cần nghiêm túc thực hiện để duy trì hòa bình ổn định ở Biển Đông. Vừa qua, ASEAN và Trung Quốc đã ký kết Quy tắc hướng dẫn thực hiện DOC, do vậy việc thực hiện nghiêm túc các nội dung DOC là trách nhiệm của mỗi bên tham gia ký kết.

Ba là, một nội dung hết sức quan trọng thể hiện rõ quan điểm nhất quán của Việt Nam về phương thức giải quyết vấn đề trên biển là cả song phương lẫn đa phương đã được ghi nhận trong điều 3 của Thỏa thuận là "đối với tranh chấp trên biển giữa Việt Nam - Trung Quốc, hai bên giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị. Nếu tranh chấp liên quan đến các nước khác, thì sẽ hiệp thương với các bên tranh chấp khác”. Điều này có nghĩa là Việt Nam - Trung Quốc chỉ có thể giải quyết các vấn đề tranh chấp giữa hai nước, như tranh chấp Hoàng Sa, cửa vịnh Bắc Bộ, không thể giải quyết các tranh chấp liên quan đến các bên khác, như vấn đề Trường Sa. Đây cũng là lần đầu tiên Trung Quốc ký kết một văn bản chính thức trong đó nói rõ tranh chấp liên quan đến nhiều bên thì phải trao đổi ý kiến với các bên đó. Nội dung này của Thỏa thuận đã mở ra khả năng về giải quyết đa phương tranh chấp ở Biển Đông. Điều này là phù hợp với quan điểm chung của các nước trong và ngoài khu vực, phù hợp với thực tế tranh chấp ở Biển Đông và phù hợp với xu thế giải quyết các tranh chấp liên quan đến nhiều bên trong quan hệ quốc tế hiện đại.

Vấn đề Biển Đông hết sức phức tạp liên quan đến lợi ích của nhiều nước, nhiều bên. Với nội dung này trong điều 3 của Thỏa thuận, chúng ta có thể hiểu rằng đối với việc giải quyết tranh chấp ở Biển Đông thì những vấn đề chỉ liên quan đến Việt Nam - Trung Quốc như vấn đề phân định vùng biển chồng lấn ở khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và vấn đề quần đảo Hoàng Sa sẽ được trao đổi giải quyết song phương giữa Việt Nam - Trung Quốc; vấn đề quần đảo Trường Sa sẽ phải bàn bạc giải quyết giữa các bên liên quan trong tranh chấp; vấn đề duy trì hòa bình ổn định, an ninh an toàn hàng hải ở Biển Đông cần phải trao đổi bàn bạc giữa tất cả các bên liên quan và có lợi ích trong vấn đề này.

Bốn là, một nội dung đáng chú ý trong Thỏa thuận là tại điều 4 hai bên xác định "trong tiến trình tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, đối xử bình đẳng, cùng có lợi, hai bên bàn bạc thảo luận về những giải pháp mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển theo những nguyên tắc đã nêu tại điều 2 của Thoả thuận này”.

Với nội dung này, hai bên đã đưa ra khả năng về một giải pháp mang tính quá độ đối với các khu vực tranh chấp, bao gồm cả việc hợp tác cùng phát triển theo nguyên tắc đã nêu ở điều 2 của Thoả thuận, nghĩa là căn cứ vào luật pháp quốc tế, Công ước Luật Biển 1982. Giải pháp quá độ tạm thời, hợp tác cùng phát triển là phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế. Dàn xếp tạm thời về "hợp tác cùng phát triển” được khuyến nghị trong Điều 74 và Điều 83 của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982. Theo đó, các quốc gia khi chưa tìm được giải pháp phân định thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế thì có thể thoả thuận về các dàn xếp tạm thời mang tính thực tiễn; các dàn xếp tạm thời không làm phương hại đến kết quả phân định cuối cùng. Trên thế giới đã có nhiều thoả thuận về các dàn xếp tạm thời "hợp tác cùng phát triển” dưới nhiều hình thức và trong các lĩnh vực khác nhau (nghề cá, dầu khí...). Ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương có: Hiệp định về khai thác chung Nhật Bản – Hàn Quốc năm 1974 ở khu vực biển chồng lấn giữa hai nước; Hiệp định về phát triển chung vùng biển chồng lấn ở Biển Đông Timor giữa Úc và Indonesia năm 1989. Năm 1992, Việt Nam cũng đã ký với Malaysia Thoả thuận về khai thác chung dầu khí tại 01 khu vực biển chồng lấn giữa hai nước và đến nay đang được triển khai.

Thoả thuận đã cho thấy thái độ và tinh thần hợp tác nhằm duy trì hoà bình ổn định trên biển. Một điều cần nhấn mạnh trong nội dung này là điều 76 của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 cũng quy định rõ mỗi quốc gia ven biển có vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa tối thiểu là 200 hải lý tính từ đường cơ sở, thậm chí có thể mở rộng ra đến 350 hải lý. Như vậy, giải pháp quá độ tạm thời, hợp tác cùng phát triển theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 là phải tôn trọng vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa tối thiểu của mỗi quốc gia ven biển. Do vậy, hợp tác cùng phát triển chỉ có thể được thực hiện ở những khu vực thực sự có tranh chấp ngoài thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam.

Ngoài ra, Thoả thuận đã nêu ra một số nguyên tắc khác là giải quyết các vấn đề trên biển theo tinh thần tuần tự tiệm tiến, dễ trước khó sau. Vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này. Tích cực thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực ít nhạy cảm như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học, tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn trên biển, phòng chống, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Nỗ lực tăng cường tin cậy lẫn nhau để tạo điều kiện cho việc giải quyết các vấn đề khó khăn hơn. Hai bên cũng đã nhất trí cơ chế gặp định kỳ Trưởng đoàn đàm phán biên giới cấp Chính phủ 2 lần/năm; thiết lập cơ chế đường dây nóng trong khuôn khổ đoàn đại biểu cấp Chính phủ để kịp thời trao đổi và xử lý thoả đáng vấn đề trên biển.

Kết quả đàm phán luôn là một sự dung hoà của các mối lợi ích để tìm ra tiếng nói chung mà hai bên đều có thể chấp nhận được chứ không thể đòi hỏi chỉ giành phần thắng lợi về mình. Nội dung Thoả thuận về cơ bản đã đảm bảo được những nguyên tắc lớn trong quan điểm lập trường của Việt Nam là giải quyết tranh chấp ở Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982; thực hiện nghiêm túc DOC nhằm duy trì hoà bình ổn định ở Biển Đông; giải quyết tranh chấp ở Biển Đông cả song phương lẫn đa phương; hợp tác cùng phát triển phải phù hợp với luật pháp quốc tế, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, nghĩa là tôn trọng vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của các quốc gia ven biển.

Tóm lại, với những nội dung phân tích trên đây thì việc ký kết Thoả thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển đã tạo cơ sở pháp lý cho việc bàn bạc giải quyết các vấn đề tranh chấp ở Biển Đông. Tuy nhiên, đây mới chỉ là bước đi đầu tiên trong quá trình giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc. Tình hình Biển Đông sẽ còn diễn biến phức tạp, công việc tiếp theo sẽ còn hết sức khó khăn. Để có thể tìm kiếm một giải pháp quá độ tạm thời hay giải pháp lâu dài cho các vấn đề tranh chấp ở Biển Đông đòi hỏi nỗ lực và thiện chí của cả hai bên, nhất là cần thực hiện nghiêm túc những nguyên tắc đã được xác định trong Thoả thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển. Mặt khác, vấn đề Biển Đông là vấn đề nhạy cảm được cả cộng đồng quốc tế quan tâm, do vậy trong quá trình giải quyết các vấn đề cụ thể liên quan ở Biển Đông, cần thực hiện công khai hoá, minh bạch hoá. Việc đăng toàn văn Thoả thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển ngay sau khi ký kết là cách làm đúng đắn, cần tiếp tục được thực hiện trong thời gian tới.

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
Đổi mới tư duy quy hoạch cải tạo đô thị theo hướng phát triển bền vững
Quá trình đô thị hóa gắn liền với các cuộc cách mạnh công nghiệp. Việc cải tạo đô thị ở các giai đoạn đô thị hóa đều được dẫn dắt bởi các tư tưởng quy hoạch, định hình nên mô hình đô thị sau cải tạo. Tư duy quy hoạch cải tạo đô thị nhấn mạnh sự linh hoạt, đề cao sự phát triển bền vững, bảo tồn di sản và sự tham gia của cộng đồng, chuyển từ mô hình một trung tâm sang mô hình đa trung tâm.