Hậu trường phản biện hồ sơ di sản UNESCO
GS.TS Ngô Đức Thịnh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu văn hóa, thành viên Hội đồng di sản quốc gia là người đã phản biện cả hai hồ sơ Quan họ và Ca trù trước khi được gửi sang cho UNESCO. GS cũng là người được UNESCO mời làm chuyên gia độc lập phản biện hồ sơ Sử thi của Mông Cổ đã được công nhận "di sản phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp" (cùng với Ca trù của Việt Nam và 10 di sản khác).
Bắc Giang đã "nhường" tên cho Bắc Ninh?
Tên chính thức của hồ sơ quan họ là "dân ca quan họ Bắc Ninh", trong khi Bắc Giang cũng có nhiều làng quan họ. Nhìn danh sách các di sản được công nhận lần này, Argentina và Urugoay cùng là chủ nhân của điệu Tango, "độc đáo" hơn khi Lễ hội mùa xuân (tổ chức vào ngày 21/3 hàng năm) là di sản chung của các quốc gia Azerbaijan; India; Iran, Kyrgyzstan; Uzbekistan; Pakistan; Turkey. Ở ta thì hai tỉnh sát cạnh còn "tranh giành" mà không thể cùng tự hào về một di sản chung sao?
-Khi nhận xét hồ sơ Quan họ, tôi có gợi ý những nhà nghiên cứu và soạn thảo đề án Quan họ chú ý đến dòng sông Cầu. Xét về không gian địa lý và môi trường tự nhiên trong việc hình thành và phổ biến loại diễn xướng dân ca này. Theo tôi, sông Cầu chính là dòng sông quan họ. Sau đó đã bổ sung trong bộ 10 ảnh chính thức một ảnh hát Quan họ trên sông.
Tôi và một số thành viên không đồng tình tên gọi của hồ sơ là dân ca quan họ Bắc Ninh . Tôi đề xuất tên gọi là quan họ Kinh Bắc , đúng với lịch sử hơn. Trước đây cũng đã có băn khoăn khi chỉ đăng ký không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, nhiều tỉnh khác cũng chơi Cồng chiêng đã bị "bỏ quên". Mình đề cử với UNESCO là quá trình "quốc tế hóa" văn hóa của mỗi dân tộc, cớ gì ta lại "địa phương hóa", làm sai lệch bản chất không gian của di sản?
Các nhà đề xuất dự án lấy đủ lý do để bảo vệ quan điểm chọn tên "Quan họ Bắc Ninh", nào là Bắc Giang đã "nhường" tên cho Bắc Ninh, nào là gắn với 1 tỉnh để dễ triển khai việc bảo tồn và phát huy (tức là ưu tiên cái dễ cho các nhà quản lý, bất chấp sự thực khách quan), nào là nếu không có tên Bắc Ninh gắn với Quan họ thì người lãnh đạo sẽ bị người Bắc Ninh "khiển trách?"…
Kinh nghiệm bảo tồn từ chủ thể Sử thi Mông Cổ
GS có thể lý giải lý do UNESCO mời ông phản biện "kín" hồ sơ Sử thi của Mông Cổ? Đây có phải lần đầu tiên GS "cộng tác" với UNESCO không?
- Thực ra có một số lần tôi đã cộng tác với UNESCO trong các hội thảo khoa học ở Thái Lan, ở Ấn Độ, cũng như một số hội thảo tổ chức trong nước trong thập niên văn hóa mà UNESCO đề xướng. Tuy nhiên, việc phản biện một đề án của UNESCO về văn hóa phi vật thể thì đây là lần đầu tiên. Có lẽ, vào những năm 2001-2007, tôi là người đề xướng và chủ trì đề án điều tra, sưu tầm, biên dịch và xuất bản Sử thi Tây Nguyên, được thế giới biết đến, nên họ biết đến tôi ở lĩnh vực Sử thi.
Vào khoảng tháng 7/2009, tôi có nhận được đề nghị phản biện độc lập hồ sơ Sử thi của Mông Cổ, tôi nghĩ đây là cơ hội mình có thể tìm hiểu sâu về Sử thi Mông Cổ, bởi trong những năm vừa qua tôi có đặt chân đến đất nước này, ít nhiều có tìm hiểu Sử thi của họ. Mặt khác, giữa Sử thi Việt Nam và Mông Cổ, tuy khác nhau nhiều, nhưng có những nét tương đồng, đều là Sử thi “sống”, tức là nó còn được diễn xướng trong đời sống cộng đồng.
GS có thể so sánh Sử thi Mông Cổ với Sử thi Tây Nguyên?
- Cả 2 đều là Sử thi "sống", vẫn diễn xướng trong cộng đồng, vẫn có sự trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Nhưng Sử thi Mông Cổ ở trình độ phát triển cao hơn Sử thi Tây Nguyên. Sử thi Tây Nguyên là sử thi cổ sơ đặc trưng giai đoạn chuyển từ xã hội bộ lạc sang xã hội có giai cấp, là những bộ sử thi nhỏ của các cộng đồng riêng biệt, số lượng nhiều nhưng từng bộ thì không đồ sộ. Còn Sử thi Mông Cổ được xếp vào giai đoạn sử thi cổ đại, đã vận động đến giai đoạn hình thành nhà nước nên nó quy tụ thành những bộ sử thi đồ sộ tiêu biểu cho quá trình hình thành một quốc gia.
Một khác biệt nữa là Sử thi Mông Cổ là sử thi của dân thảo nguyên, của nền văn hóa du mục, nên nhịp điệu mạnh, âm điệu phong phú. Sử thi Mông Cổ có âm nhạc (đàn cổ ngựa), người diễn xướng vừa chơi đàn vừa hát, giọng hát vang rất xa, tưởng tượng đến thảo nguyên mênh mông, tiếng đàn tiếng hát rất thu hút người nghe.
Sử thi Mông Cổ đã được công nhận là "di sản phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp", nghĩa là GS đã "đánh giá cao" hồ sơ này? Mông Cổ đã có kế hoạch hành động gì để bảo tồn và phát huy nghệ thuật Sử thi đang mai một?
![]() |
| Quan họ làng Lũng Giang |
- Tôi ủng hộ dự án này có lẽ ở sự đồng cảm giữa hai nền “văn hóa sử thi” đồ sộ, nhưng đang đứng trước sự đe dọa, cần phải làm mọi cách để cứu lấy nó trước nguy cơ biến mất trong xã hội hiện đại.
Mông Cổ đưa ra đề án bảo tồn toàn bộ Sử thi Mông Cổ, chủ yếu là Sử thi của miền tây Mông Cổ vẫn sống theo kiểu du mục. Phải có 2 điều kiện để bảo tồn một di sản phi vật thể là môi trường và nghệ nhân. Sử thi phản ánh một tâm thức xã hội khác, khi bước vào xã hội hiện đại thì cái "môi trường" kia rất dễ mất đi.
Mông Cổ đã tổ chức nhiều lớp truyền dạy. Họ có may mắn là lớp thanh niên không quá đô thị hóa nên vẫn còn tâm thức cũ để quan tâm đến Sử thi. Họ cũng rất chú trọng đến tính "cha truyền con nối" giữa các nghệ nhân Sử thi, con học cha, cháu học ông... Họ tỉnh táo phân tích rằng, không thể "trông đợi" ai cũng phải hiểu và yêu Sử thi, người có thể "sở hữu" Sử thi lại càng hiếm, bởi không chỉ đòi hỏi giọng hát, tiếng đàn mà còn là một trí nhớ "siêu đẳng".
Môi trường của Sử thi Mông Cổ có "may mắn" hơn ta vì ở miền tây Mông Cổ vẫn còn giữ lối sống du mục, nên đêm là thời gian họ tập hợp uống rượu sữa, trà sữa rồi hát Sử thi.
Họ lại có những "trí thức" bản địa hiểu và yêu di sản để trực tiếp làm công việc nghiên cứu, biên tập, phiên dịch... chỉ cần nhà nước đầu tư.
Ý GS muốn so sánh với tình trạng ở Việt Nam, khi phần đông người nghiên cứu Tây Nguyên là người Kinh?
- Quả thật, có chuyện người đi sưu tầm Sử thi không biết tiếng dân tộc, chỉ biết đến đó bật máy lên ghi, có băng đưa về là họ kể chuyện. Sau này đến khâu dịch ra tiếng Việt cũng rất khó.
Chính lớp trí thức Tây Nguyên mới là những người "mang" văn hóa truyền thống Tây Nguyên vào xã hội hiện đại, nếu không nền văn hóa của họ sẽ mất đi. Viện Nghiên cứu văn hóa đã từng có đề án đào tạo lớp "trí thức Tây Nguyên", đào tạo được 12 thạc sĩ để nghiên cứu Tây Nguyên. Nhưng đào tạo họ xong thì họ cũng không được "dùng".
Bảo tồn Nhã nhạc, Cồng chiêng đã đúng chưa?
Sử thi Mông Cổ còn chút ít môi trường, tâm thức, nhưng họ đã đăng ký "di sản cần bảo vệ khẩn cấp". Còn Quan họ của ta chỉ đăng ký di sản đại diện, trong khi có thực tế là chỉ quan họ đoàn đang "sống khỏe", còn quan họ hát canh - quan họ gốc cũng gần như mất hẳn?
-Đúng là nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống chỉ phát triển "nhánh" chuyên nghiệp, biểu diễn sân khấu, nhưng không còn "sống" trong cộng đồng các làng nữa. Năm ngoái tôi có được xem một canh Quan họ, nhưng cũng đã bị biến thái và sân khấu hóa rồi. Lại có nhiều người, kể cả các nhà nghiên cứu, giới quản lý thích quan họ sân khấu hơn vì dễ nghe hơn.
Nhưng có một thực tế, nếu ta đăng ký cả Ca trù và Quan họ vào cùng danh sách "di sản phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp" dễ dẫn đến tình trạng... mình tự loại mình. So sánh 2 loại hình thì ca trù "hấp hối" hơn, thể hiện tính cấp bách cần được bảo tồn hơn.
Trong điều kiện bối cảnh xã hội thay đổi, ta phải chấp nhận việc chỉ bảo vệ Quan họ, Ca trù như một hình thức nghệ thuật để người hiện đại thưởng thức trong tâm thức hiện đại, không thể đòi "phục dựng" trở lại cái nguyên gốc. Khi các mối quan hệ xã hội, tín ngưỡng... đi kèm với nó nhạt đi rồi thì cái còn lại có thể chỉ là nghệ thuật biểu diễn. Nhưng cũng đừng "tiêu cực" nghĩ rằng đã mất môi trường thì di sản sẽ chết.
Có chăng thực tế "Bụt chùa nhà không thiêng", tự ta không biết giá trị di sản của ta, nên phải nhờ "danh hiệu" quốc tế để tác động trở lại?
- Đúng là khi được UNESCO công nhận di sản sẽ tạo ra nhận thức, tác động trở lại với cộng đồng để có sự tự hào, từ đó cùng nhau suy nghĩ và hành động để bảo tồn, phát huy di sản. Quá trình làm hồ sơ cũng là quá trình nâng cao nhận thức của cộng đồng, bởi chính cộng đồng chủ thể sẽ quyết định sự "thịnh", "suy" của di sản.
Không nên "tôn vinh" quá mức danh hiệu "di sản phi vật thể của nhân loại" của UNESCO, dẫn đến thái độ "kiêu căng" của các tỉnh thành có di sản so với tỉnh thành chưa có di sản. Rất cần một tổng kết nghiêm túc chương trình hành động với hai di sản phi vật thể đã được công nhận trước đây là Nhã nhạc và Cồng chiêng, xem cách bảo tồn, phát huy đã đúng chưa, hay vẫn còn nặng tính hình thức, như cách tổ chức rất nhiều liên hoan, festival cồng chiêng cấp tỉnh, cấp quốc gia rồi sắp tới lại cấp quốc tế.
Những liên hoan như thế có giúp di sản sống và phát triển trong cộng đồng hay không là câu hỏi cần thẳng thắn trả lời. Để từ đó có cách hành xử đúng hơn với những di sản vừa được công nhận và rất nhiều di sản giá trị của các cộng đồng chưa được quan tâm đúng mức.
Xin cảm ơn GS.









