Hậu quả chính yếu của suy thận mạn
Hậu quả chuyển hóa: cặn bã nitơ
Trong bài trước có đề cập đến “urê”; “độc tính urê”; ở ta, khó khăn đánh giá cung ứng protid hằng ngày do nếp sống, cách ăn uống; giải pháp giảm protid trong chế độ ăn chay được cổ vũ ở một vài địa phương Á châu.
Crêatinin
Được sản xuất từ crêatin cơ, bài xuất do siêu lọc cầu thận và tỷ lệ huyết tăng trong suy thận mạn. Chưa biết nó có khả năng gây độc cho cơ thể.
Acid uric
Trong suy thận mạn tăng acid uric huyết (> 420mmol/l hay 70mg/I) là thường xuyên, đôi khi gây cơn gút (thống phong). Tăng acid uric huyết không triệu chứng không cần chữa trị. Trong điều trị có triệu chứng: cấm sử dụng kháng viêm không steroid. Gôm: chế độ ăn giảm protid, tạm thời cholchicine không quá 1mg/ngày, một ức chế xanthin - oxydaz, như allopurinol (Zyloric), liều lượng phù hợp mức độ suy thận:
• 100 đến 300mg/ngày nếu hệ số thanh thải crêatinin trên 20ml/phút;
• 100 đến 20mg/ngày nếu hệ số giữa 10 và 20ml/phút;
• 100mg/ngày nếu hệ số dưới 10ml/phút.
Cẩn thận: Kết hợp allopurinol - penicillin type A (ampicillin, amoxicillin) dễ gây phản ứng ở da. Các loại trừ acid uric khác (Désuric) không hiệu nghiệm do suy thận.
Cân bằng nước - muối
Nước
Thận là tạng giữ hằng định nội môi vế nước. Nhờ khả năng cô và pha loãng nước tiểu nó giúp cơ thể thích nghi với cung ứng và mất nước ngoài thận bị thay đổi và giữ được thủy hợp đến cơ thể ở mức bình thường. Suy thận mạn làm giảm số nêphron, chuyển khả năng giữ bình thường thủy hợp đến các nêphron mạnh giỏi còn lại. Trong tiến trình suy thận mạn xuất hiện rối loạn khả năng cô và pha loãng nước tiểu. Có thể chia ra hai giai đoạn: giai đoạn sớm trong đó lọc tiểu cầu trên 15ml/phút và giai đoạn tiến triển trong đó lọc tiểu cầu dưới 15ml/phút đặt ra nhiều vấn đề khác nhau.
Giai đoạn sớm
Chứng đa niệu, thứ phát, do bài niệu thẩm thấu, thường xảy ra sớm. Tăng cao urê huyết đem đến các nêphron còn lại một trọng tải thẩm thấu quan trọng và mất nước theo đường niệu: thể tích nước tiểu tăng nhưng nước tiểu rất pha loãng. Do đó, không đánh giá chức năng thận bằng thể tích nước tiểu. Trong suy thận mạn bài niệu nhiều trong lúc chức năng thận bị rối loan. Để bù đắp đa niệu người bệnh khát nhiều; thức uống phải tự do và đầy đủ, nhất là trong tình huống có thể đưa đến mất nước.
Khả năng cô nước tiểu giảmcũng xảy ra sớm: thận trở thành không năng lực cô nước tiểu để giữ lại nước. Do đó người suy thận mạn không thể phản ứng lại có hiệu quả mất nước ngoài thận quan trọng (tiêu chảy, ói mửa, trúng nắng, cảm nóng...), hoặc trong hạn chế nước và mất nước. Trong những tình huống đó cần bù nước sớm. Cần tránh những giai đoạn mất nước vì là yếu tố làm nặng thêm suy thận mạn.
Giai đoạn tiên triển
Ở giai đoạn này, đến phiên các cơ chế pha loãng bị thương tổn.Thận không còn khả năng đối mặt với cung cấp quan trọng nước để pha loãng nước tiểu. Sai lầm cần tránh là khuyên uống nước nhiều, có khả năng nguy hiểm vì nguy cơ tăng ngấm nước và giảm natri huyết do pha loãng. Ngộ độc nước này chủ yếu thể hiện bằng rối loạn tiêu hóa: nôn, mửa; người bệnh cần hạn chế nước, chỉ uống vừa đủ đã khát. Nếu có giảm natri huyết cần hạn chế nhiều hơn.
Trong thực tiễn: giảm natri huyết có triệu chứng khi dưới 130mmol/l (bình thường: 138 - 142mmol/l) cần hạn chế nước, dĩ nhiên, tùy mức độ suy thận, trung bình một lít mỗi ngày kèm thêm: canh, cháo, trà, cà phê...
Lưu ý: Giảm natri huyết không phải gắn liền với thiếu natri. Đưa muối vào kết hợp với ngộ độc nước gây quá tải nước - natri, có khả năng đưa đến tăng huyết áp hay nhất là suy tim với phù phổi cấp.








