Hàng nội ngày càng khó cạnh tranh với hàng ngoại
Sau khi gia nhập WTO và “chạm cơn sóng dữ” đầu tiên: khủng hoảng tài chính toàn cầu thì Việt Nam mới ngỡ ngàng nhận thức sâu sắc rằng hóa ra thị trường nội địa của mình đang bị xâm chiếm toàn diện. Hóa ra các cuộc “xâm lăng” thời hiện đại chủ yếu là xâm chiếm thị trường trong khuôn khổ các định chế thương mại toàn cầu hóa để khiến hàng nội quay trở lại với thị trường nội địa cũng đâu có dễ.
Với các cụ ngày xưa thì câu hỏi “hàng nội là gì” quá đơn giản: Đó là hàng do người Việt ta sản xuất. Còn ngày nay, khi toàn cầu hóa khiến cho bất cứ sản phẩm nào làm ra cũng có thể có các cấu thành xuất xứ từ nhiều quốc gia khác nhau, thì hàng nội hóa là cái khó xác định: đến hạt lúa làm ra còn có phần phân bón ngoại nhập, chở đi đến cho người tiêu dùng bằng xe ô tô ngoại nhập! Nên nếu chúng ta tạm coi hàng có hơn 50% giá trị được sản xuất trong nước là hàng nội dù rằng trong những cấu thành làm nên một sản phẩm còn có bao nhiêu xuất xứ thuần Việt lại đang còn là vấn đề tạm bỏ ngỏ thì cũng không thật ổn? Vậy thì nên chăng coi hàng Việt là hàng do một người chủ (cả tư nhân, tập thể lẫn nhà nước) Việt có một thương hiệu Việt làm ra.
Có điều, thực tế hôm nay còn có rất nhiều hãng liên doanh hoặc nước ngoài ở Việt Nam đang tham gia tích cực vào sản xuất cung ứng hàng tiêu dùng phục vụ cho thị trường nội địa. Vậy thì xác định như thế nào đây những hàng đó? Về lý thuyết, có hai cực ở đây: 1. những hàng đưa ra thị trường có sử dụng về cơ bản những nguyên vật liệu làm ra ở Việt Nam ; 2. những hàng đưa ra thị trường sử dụng về cơ bản những nguyên vật liệu, phụ kiện làm ra ở nước ngoài. Loại thứ nhất cần được xem là hàng nội và loại thứ hai phải là hàng ngoại “giả vờ” hàng nội.
Nếu không xét tới nhóm hàng nội giả vờ, nhìn vào những hàng nội đang có chúng ta có thể thấy khá rõ sự khác biệt giữa hai nhóm hàng nội này: nhóm thứ nhất đang chật vật để dành một chỗ đứng xứng đáng trên thị trường vốn là của mình trong khi nhóm thứ hai xâm chiếm mạnh mẽ thị trường. Tức là vẫn nguyên vật liệu do xứ sở này cung cấp và nhân lực cũng chủ yếu do người Việt tham gia nhưng có sự khác nhau về trình độ công nghệ trong các doanh nghiệp, cách thức quản lý trong các doanh nghiệp và sự bảo hộ pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động. Kể cả những từ khó khăn khi kiếm mảnh đất cho đến thời gian đi nộp thuế... Và kết quả rất khác nhau.
Trước hết, công nghệ ứng dụng sẽ tùy thuộc vào việc chúng ta lựa chọn công nghệ nào và khả năng chúng ta phát minh, cải tiến chúng như thế nào để đưa vào sản xuất. Sự thiếu hiểu biết về khoa học và công nghệ chung của nước nhà cũng như của những nhà quản lý được bổ nhiệm trong các doanh nghiệp nhà nước, nhóm chiếm đa số nguồn vốn quốc gia dành cho phát triển, đã không cho phép chúng ta tiếp cận với các công nghệ mới và càng ít có khả năng sáng tạo cái mới. Và có lẽ không cần nói ai cũng hiểu rằng sức cạnh tranh của hàng hóa trước hết tùy vào trình độ công nghệ và nếu công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam kém thì sức cạnh tranh suy giảm là điều quá đương nhiên.
Tiếp đó, là cung cách quản lý một doanh nghiệp. Cách quản lý nhằm vào thị trường khác cách quản lý nhằm vào thực hiện kế hoạch ở chỗ rất cơ bản là sử dụng người tài và khoa học kỹ thuật. Các doanh nghiệp lớn Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước nên quan tâm đến ứng xử, thứ bậc nhiều hơn là quan tâm đến sử dụng người tài.
Vì vậy giới chuyên gia giỏi khó tồn tại được trong các doanh nghiệp đó với thu nhập cào bằng và những ứng xử ngoài chuyên môn của họ. Nên những người tài phải “bật bãi” khỏi các doanh ngiệp nhà nước vẫn là chuyện quá thường trong khi các doanh nghiệp tư nhân còn quá nhỏ để sử dụng hết được kiến thức và kỹ năng của họ. Nhìn những thông tin về ông Hai lúa chế máy bay trực thăng hay anh nông dân làm ra một cái máy gì gì đó thì mới phải ngậm ngùi cho số người có bằng cấp đại học, thạc sỹ, tiến sỹ cao ngất trời mà Việt Nam hiện đang có rất nhiều, không biết họ ở đâu và làm gì?
Cuối cùng, một doanh nghiệp ở Việt Nam tồn tại trong một môi trường tuy đã được cải thiện nhiều nhưng còn rất bấp bênh. Doanh nghiệp vẫn đang được nhìn nhận như là đối tượng “để hành” và “để nộp”. Các doanh nghiệp liên doanh nước ngoài, với vị thế của mình, ít bị ảnh hưởng hơn vì những sự vô lý của môi trường. Hơn thế, họ vẫn có một khung pháp lý khác. Sự ổn định này cho phép người ta đầu tư mạnh tay hơn và vững vàng hơn cho doanh nghiệp. Và cũng sống chết hơn với doanh nghiệp chứ không có sự ăn xổi ở thì nhiều như ở không ít doanh nghiệp thuần Việt.
Vậy là chúng ta đang đi đến điểm tận cùng của việc người Việt dùng hàng Việt là hàng hóa Việt phải có đủ sức cạnh tranh. Trước hết là trên thị trường nước nhà và sau đó là trên thế giới. Và giải quyết như thế nào để lấp sự khác biệt giữa hai nhóm hàng nội đó để hàng nội nào cũng có sức cạnh tranh như hàng nội nào?
Chỉ báo thắng thua của cuộc đấu tranh dùng hàng nội địa và dành lại thị trường nội địa nằm trong cái gọi là năng lực cạnh tranh quốc gia: sản xuất ra được thứ hàng nội có khả năng cạnh tranh so với các quốc gia khác ở trên toàn thế giới chứ không chỉ ở trong nước. Chỉ tiêu đó đang dần dần tụt dốc trong ba năm vừa qua. Dù rằng nhiều người cố tự an ủi chúng ta đã có cải tiến nhiều nhưng tụt bậc vì các nước khác lại cải tổ nhiều hơn! Nhưng dù thế nào đi nữa thì chỉ báo đó cũng cho thấy là hàng nội ngày một gặp khó hơn khi cạnh tranh với hàng ngoại để dành tình cảm của người mua.








