Hai lần lập dinh Trấn Biên, Phú Yên & Biên Hoà
Mới thống nhất được 8 năm, Nguyễn Hoàng đem theo cả binh lính và thân quyến bí mật vào ở hẳn Thuận Quảng, tỏ vẻ đối đầu với họ Trịnh, tạo thành tình thế chia rẽ Đàng Trong với Đàng Ngoài.
Năm 1602, Nguyễn Hoàng đi tham quan đèo Hải Vân, thấy một giải núi cao dăng dài mấy trăm dặm nằm ngang đến bờ biển, bèn khen rằng: “Chỗ này là đất yết hầu của miền Thuận Quảng” (1). Nguyễn Hoàng liền vượt qua núi, xem xét hình thể rồi xây dựng dinh trấn Quảng Nam tại xã Cần Húc (nay là thôn Thanh Chiêm, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Từ đó Dinh Chiêm - Đà Nẵng - Hội An trở thành phồn vinh cả nội thương lẫn ngoại thương.
Năm 1611, quân Chiêm Thành xâm lấn biên giới, Nguyễn Hoàng sai chủ sự Văn Phong đem quân đi đánh được đất ấy, bèn đặt thành Phủ Phú Yên coi 2 huyện Đồng Xuân - Tuy Hòa cho thuộc về trấn Quảng Nam và đặt Văn Phong làm thủ phủ.
Năm 1629, Văn Phong dùng quân Chiêm Thành làm phản ở Phú Yên, chúa Sãi - Nguyễn Phước Nguyên (con Nguyễn Hoàng) sai Phó tướng Nguyễn Phước Vinh (con cả Mạc Cảnh Huống đã về hàng nên được theo quốc tính, sau đổi thành Nguyễn Hữu, được lấy công chúa Ngọc Liên con chúa Sãi) đi dẹp yên và lập dinh Trấn Biên. (Khi mới mở mang, những nơi đầu địa giới đều gọi là Trấn Biên). Như vậy, dinh Trấn Biên - Phú Yên là địa đầu quan trọng của cả Đàng Trong.
Năm 1651, vua Chiêm Thành là Bà Tấm đem quân xâm lấn Phú Yên, chúa Hiền - Nguyễn Phước Tần sai cai cơ Hùng Lộc lãnh 3.000 quân vượt đèo Hổ Dương núi Thạch Bi đánh đuổi Bà Tấm, lấy đất từ đó đến sông Phan Rang. Chúa đặt thành dinh Thái Khang (nay là tỉnh Khánh Hòa) và để vua Chiêm làm chủ đất Thuận Thành.
Mùa thu năm 1692, vua Chiêm Thành là Bà Tranh họp quân đắp lũy, cướp giết cư dân ở phủ Diên Ninh. Chúa Minh - Nguyễn Phước Chu sai cai cơ Nguyễn Hữu Cảnh đem quân đi dẹp. Đầu năm 1693, ông Cảnh đánh bắt được Bà Tranh và phụ tá Kế Bà Tử. Chúa Minh bèn truất phế Bà Tranh, nhưng vẫn cấp dưỡng cho về ở vùng núi Ngọc Trản. Chúa lại đổi trấn Thuận Thành làm phủ Bình Thuận và cho Kế Bà Tử làm khám lý - chức vụ phụ tá cho thủ phủ Việt Nam. Cuối năm 1695, chúa Minh cho Kế Bà Tử làm phiên vương Thuận Thành để vỗ về chiêu tập quân dân.
Đầu năm 1698, chúa Minh sai thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lý. Tới nơi, thấy đất đai đã khai thác trên nghìn dặm và số lưu dân đã có trên bốn vạn hộ, ông bèn thiết lập phủ Gia Định gồm hai huyện: lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long và dựng dinh Trấn Biên, lại lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình và dựng dinh Phiên Trấn.
Từ khi dựng dinh Trấn Biên - Phú Yên năm 1629 đến lúc chuyển dinh đó vào Đồng Nai năm 1698, mất vừa đúng 70 năm. Cho đến nay, hầu như chưa có công trình nào nghiên cứu thấu đáo vai trò chiến lược cực kỳ trọng yếu của dinh Trấn Biên như vừa kể. Trong suốt lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, chỉ có một dinh Trấn Biên - nơi địa đầu của Tổ quốc ở thời điểm 1629 - và dinh đó được chuyển vào Đồng Nai - nơi địa đầu của Tổ quốc đã được nới rộng và hoàn chỉnh ở thời điểm 1698. Dinh Trấn Biên - Phú Yên đánh dấu mức phát triển bền vững của trấn Quảng Nam về mọi mặt. Thậm chí, thương gia Trung Hoa và các nước Tây phương gọi miền này là Quảng Nam quốc mà đô thị là Hội An, đối với An Nam quốc mà kinh đô là Thăng Long.
Sử còn ghi: năm 1471, Lê Thánh Tông đem đại quân chinh phạt Chiêm Thành, hạ được thành Đồ Bàn và bắt được vua Trà Toàn. Sau khi toàn thắng, vua Lê cho lập đạo Quảng Nam gồm ba phủ: Thăng Hoa (sau là tỉnh Quảng Nam). Tư Nghĩa (sau là tỉnh Quảng Ngãi) và Hoài Nhơn (sau là Quy Nhơn). Vua Lê đã hành quân đến đèo Cả và lấy núi Đá Bia làm mốc ranh giới Đại Việt với Chiêm Thành. Vua Lê lại chia Chiêm Thành làm ba nước khác nhau: Nam Bàn (Gia Lai, Buôn Ma Thuột). Hoa Anh (Khánh Hòa), Chiêm Thành (Bình Thuận) còn phần đất từ đèo Cù Mông xuống tới đèo Cả thì còn để tự do chưa đặt hành chính cai trị. Tuy nhiên, năm 1578, người Chiêm dấy loạn, chúa Nguyễn Hoàng bèn sai Lương Văn Chánh đến dẹp yên. Ông Chánh mang quân vượt đèo Cù Mông, tiến đến lưu vực sông Đà Diễn (tức Đà Rằng) và chiếm được Hồ thành. Ông Chánh “chiêu tập dân Chiêm khai khẩn đất hoang ở Cù Mông, Bà Đài (Xuân Đài), cho dân di cư đến đấy. Lại mộ dân khai hoang ở trên dưới sông Đà Diễn, chia lập thôn ấp, ngày dân đông đúc” (2). Ông Chánh có công khai khẩn vùng đất này, hòa hợp quyền lợi và nhiệm vụ cho cả dân Chiêm và dân Việt. Ông Chánh nguyên gốc người Đàng Ngoài, nhưng gắn bó với nơi có công khai khẩn, nên đã nhận chốn này làm quê hương. Nhân dân địa phương tự động lập đền thờ ghi ơn ông Lương Văn Chánh.
Từ năm 1471 đến 1578 là 107 năm, thời gian này dân Chiêm tự quản. Từ năm 1578 đến 1611 là 33 năm, thời gian này dân Chiêm và dân Việt cùng nhau khai khẩn đất đai làm ăn sinh sống hòa hợp. Đến đây mức phát triển kinh tế và văn hóa đã có thể hội nhập vào xã hội Đại Việt Đàng Trong, nên Nguyễn Hoàng mới lập thành Phủ Phú Yên coi hai huyện: Đồng Xuân (Cù Mông - Bà Đài), Tuy Hòa (sông Đà Rằng).
Từ năm 1471 đến 1611 là 140 năm, đó là thời gian khá dài, chính quyền để cho vùng đất mới này được tự do và tự phát theo ý nguyện của cư dân và điều kiện tự nhiên tại chỗ. Khi tình thế chín muồi, chính quyền cho thiết lập phủ huyện để đưa vào nền hành chính và văn minh chung của cả dân tộc. Và năm 1629 lập dinh Trấn Biên - Phú Yên, chính là để khẳng định và củng cố biên cương - văn minh Tổ quốc ta tới thời điểm ấy và tại địa điểm ấy.
Còn đối với dinh Trấn Biên - Đồng Nai cũng tương tự thế. Từ năm 1629 đến 1698 là 70 năm, đó là thời gian để cho dân tộc địa phương và lưu dân Việt ở các tiểu quốc Nam Bàn - Hoa Anh - Chiêm Thành cùng nhau làm ăn sinh sống, phát triển địa bàn dần theo văn minh Việt Nam. Khi tình thế chín muồi rồi mới được đặt thành phủ huyện để có thể hoàn toàn hội nhập vào Đại Việt Đàng Trong. Khi lập dinh Trấn Biên - Biên Hòa, thì dinh Trấn Biên - Phú Yên chấm dứt nhiệm vụ, vì địa đầu của Tổ quốc nay là ở cửa ngõ Nam Bộ. Từ địa đầu Nam Bộ, năm 1698 thiết lập phủ Gia Định (gồm các tỉnh miền Đông nay); năm 1708, Mạc Cửu xin cho trấn Hà Tiên (Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu nay) hội nhập vào Gia Định; năm 1757, Nguyễn Cư Trinh sắp đặt xong nền hành chính tại xứ Tầm Phong Long (gồm các tỉnh ở Tiền Giang và Hậu Giang). Thời gian từ 1698 đến 1757 dài 60 năm, cũng tạm đủ để cho số ít dân địa phương, 5.000 người Hoa lánh nạn mới tới và số đông lưu dân Việt đã có mặt hàng thế kỷ trước, cùng nhau hòa hợp làm ăn sinh sống. Khi tình thế chín muồi, ngũ trấn rồi lục tỉnh Nam Bộ dễ dàng hội nhập vào cương thổ và nền hành chính chung của cả nước Việt Nam. Thế là dinh Trấn Biên - Biên Hòa cũng chấm dứt nhiệm vụ, vì không còn là địa đầu biên cương nữa. Năm 1808, dinh Trấn Biên - Đồng Nai đổi thành trấn Biên Hòa.
Tóm lại, dinh Trấn Biên - Phú Yên là trải nghiệm vô cùng quý báu cho lịch trình phát triển hài hòa của dân tộc ta.
Chú thích:
1) Đại Nam thực lục. Tiền biên. Tập I, NXB Sử học, Hà Nội, 1962. Trang 42.
(2) Đại Nam liệt truyện. Tập I, NXB Thuận Hóa, Huế, 1993. Trang 89.








