Hải đảo ở vùng biển Tây Nam (3)
>> Hải đảo ở vùng biển tây nam (1)
>> Hải đảo ở vùng biển tây nam (2)
Quần đảo Nam Du
Từ hòn Khoai đi ngược về phía bắc qua hòn Buông, hòn Chuối là đến quần đảo Nam Du. Quần đảo Nam Du thuộc địa bàn 2 xã An Sơn và Nam Du, huyện Kiên Hải.
Trên bản đồ thời Pháp, quần đảo Nam Du được gọi là Poulo Dama, người dân địa phương gọi là Củ Tron– tên hòn đảo lớn nhất trong quần đảo.
Xã An Sơn cách thành phố Rạch Giá 90 km về phía tây, cách xã Lại Sơn 30km về phía tây nam. Xã có 6 ấp: An Cư, Củ Tron, Hòn Mấu, Bãi Lớn, An Bình và An Phú (UBND xã đóng ở bãi Chệt trên hòn Củ Tron).
Quần đảo nằm ở tọa độ 104 022’ Đông và 9 042’ Bắc, trải dài gần 100km đường biển, tổng diện tích 13,2 km 2(1). Nam Du có các hòn: Củ Tron, Ngang (2), Mấu (3), Ông, Bờ Đập Lớn, Bờ Đập Nhỏ, Nồm Trong, Nồm Ngoài, Nồm Giữa, Lò Lớn, Lò Nhỏ, Bỏ Áo, Tre, Dâm, Đụng Lớn, Đụng Nhỏ, Nhàng, Hàn, Mốc, Dầu, Khô.
Trong 21 hòn đảo, đá lớn nhỏ. Trong đó có 7 hòn có người ở và 8 hòn chìm. Củ Tron là hòn rộng nhất (9 km 2) và cao nhất (308m). Hòn nhỏ nhất chưa có tên, chỉ là những mô đá cao, có diện tích từ 30-40m 2nhô lên mặt nước, nằm quần tụ gần nhau, mỗi hòn cách nhau không quá 10km (4).
Nhìn trên bản đồ hành chính nước ta, quần đảo Nam Du, hòn Sơn Rái, hòn Tre và thành phố Rạch Giá cùng nằm trên một đường thẳng.
Ở quần đảo Nam Du, thành phần đá gốc là loại macma phún xuất đá gressgabro silic. Đặc trưng của đá là lớp đá kiến tạo uốn nếp nứt vỡ sắc cạnh, đặc trưng của đất là đất nông, bị bào mòn mạnh, đá nổi chiếm tới 80% bề mặt.
Đường bãi Chệt, xã An Sơn dài 3,8 km, được cán nhựa trước năm 1975 là đường lên đỉnh Đài Rađa (nay là Đài Rađa 600 của Hải quân Việt Nam), các tuyến đường nội bộ trên xã An Sơn là đường đất đỏ (đường lộ ấp I, xã Hòn Tre dài 583m; lộ ấp II, xã Lại Sơn dài 548m; lộ Thiên Tuế, xã Lại Sơn dài 1.578 m và đường Bãi Ngự, xã An Sơn dài 1.000m). Đường biển từ Hòn Tre đi An Sơn dài 99 km. Các tàu biển có thể cập được bến ở các đảo trong huyện, mặc dù nhiều đảo chưa có bến cảng.
Khi xưa, các hòn chỉ tiếp nhận dân cư theo định kỳ, khi khai thác xong nông sản, hải sản rồi họ trở về đất liền. Dần dần về sau mới có vườn trồng dừa, như ở hòn Củ Tron.
Xã An Sơn vào năm 1945 mới chỉ có 4 gia đình, đến năm 1975 mới có 100 gia đình, dân số trên dưới 500 người. Năm 1983, xã có 200 hộ, với hơn 1.000 dân. Hiện nay, dân số trên xã có 8.000 người.
Dân Nam Du chủ yếu sống bằng nghề biển, ghe lưới và thẻ mực. Mỗi người một đêm bắt được từ 20-50kg mực. Đặc sản ở đây là mực, sản lượng dồi dào, ngon và thơm. Vào mùa mực, mỗi sáng hàng trăm ghe lớn nhỏ thẻ mực trở về đậu kín bãi.
Quần đảo Nam Du có rất nhiều loại mực như mực lá, mực nang, mực ống, mực thước, mực tuộc và mực túi. Ngoài ra còn có nhiều loài ốc có giá trị kinh tế cao như ngọc điệp, ngọc nữ, ốc đá, ốc tai tượng, ốc nón, ốc gai...
Nam Du ban đầu có tên là Nam Dự, nghĩa là hòn đảo ở phương Nam, nhưng đến khi người Pháp vẽ bản đồ, viết thành Nam Du. Cái tên Nam Du có từ đấy. Trên bản đồ thời Pháp, quần đảo này có tên là Poulo Dana, dân địa phương quen gọi đó là quần đảo Củ Tron(tên hòn lớn nhất trong quần đảo) hay còn gọi là quần đảo Nam Du.
Các địa danh bãi Ngự, giếng Vua (giếng Gia Long), Củ Tron (An Sơn), hòn Sơn Rái, bãi Chén (hòn Tre)...được nhân dân truyền khẩu, cho rằng các địa danh này gắn liền với sự hiện diện của chúa Nguyễn Ánh trong những ngày bôn tẩu, đã 4 lần bị quân Tây Sơn truy bắt phải lánh nạn ra đến tận đảo Phú Quốc và đảo Thổ Chu.
Về địa danh Củ Tron, thì theo truyền thuyết, khi chúa Nguyễn Ánh bại trận đến đây tạm trú, quân lính thiếu lương thực phải đi tìm trái dại, củ rừng về ăn. Họ tìm được một loại củ tròn, nấu ăn ngon, qua được cơn đói. Sau này, khi lên ngôi, vua Gia Long đặt cho đảo lớn nhất trong quần đảo là “ hòn Củ Tròn”, dân ở đây đọc trại thành “Củ Tron”. Loại củ tròn đó chính là củ nầng, một loại khoai rừng, củ to khoảng 10kg. Trước khi nấu ăn phải gọt vỏ, chẻ từng khoanh ngâm nước, lưộc nhiều lần, xả kỹ để khi nấu khoai không bị đắng. Khoai nấu chín ăn khá ngon.

Thuyền trên Bãi Ngự thuộc quần đảo Nam Du, tỉnh Tiền Giang
Ở Nam Du tuy số lượng hòn nhiều, nhưng dân số trên các hòn rất ít. Đông người nhất là hòn Củ Tron, hòn Ngang, hòn Mấu; còn các hòn Dầu, hòn Đụng, hòn Bờ Đập thì rất ít; hòn Nồm chỉ có 1 gia đình. Do đó, việc thờ cúng thần linh cũng hạn chế. Hòn nào ít người ở thì lập miếu thờ thổ địa, nơi đông thì thờ bà Chúa Xứ (bà Chúa Hòn), thờ cá Ông, thờ Phật. Việc thờ và cúng lớn chỉ có ở hòn Củ Tron, hòn Ngang và hòn Mấu.
Phía cuối cầu cảng trên hòn Củ Tron là Nhà bia tưởng niệm, ghi lại những tổn thất nặng nề về người và của trong cơn bão số 5 lịch sử năm 1997 (5). Hải đăng Nam Du nằm trên độ cao 309m so với mực nước biển, ngoài việc bảo đảm an toàn hàng hải còn góp phần làm nên cảnh đẹp cho Nam Du.
Giữa thế kỷ thứ XVI, tại quần đảo Nam Du đã xảy ra trận ác chiến giữa đội tàu người Hà Lan và người Hải Nam (Trung Quốc- dân địa phương gọi là người Chệt) tranh nhau số huyền phách khai thác được chuyển từ Phú Quốc về. Trong trận này có nhiều người Hoa chết không được chôn cất, thi thể của họ đều bị bão biển cuốn trôi, nhiều xác trôi tấp vào bãi này, nên có địa danh bãi Chệt.
Người ta biết đến quần đảo này có lẽ sau sự kiện những năm 70 của thế kỷ XVIII, khi quân chúa Nguyễn Ánh đến đây tạm trú để trốn tránh quân Tây Sơn. Về sau các đảo trong quần đảo này mới có những cái tên như hòn Củ Tron, bãi Giếng, bãi Ngự, hòn Mấu, hòn Ngang…Nhiều giai thoại, truyền thuyết về sự có mặt của Nguyễn Ánh hiện còn đang lưu truyền tại đây. Tại giếng Vua (hòn Củ Tron) có một tấm bia ghi bằng chữ Hán, được chôn sâu dưới đất nên không đọc được hết chữ, dân địa phương cho là do chính tay Nguyễn Ánh khắc để kỷ niệm những ngày ở đây.
Từ năm 1887, thực dân Pháp cho tàu tuần dương thị sát các hòn đảo, có khảo sát qua quần đảo này, nhưng trên các đảo toàn là rừng, giá trị kinh tế không lớn, không có dân cư, nên chính quyền thực dân không phân định địa giới hành chánh cho quần đảo này. Thỉnh thoảng có vài thương thuyền người Trung Hoa, Mã Lai... ghé qua để tránh bão, sau đó dong thuyền đi tiếp, chứ không ở lâu.
Trong cuốn Hà Tiên địa phương chícủa Portron Klian soạn năm 1929 có đề cập nhóm đảo này thuộc địa phận của quận Phú Quốc: “Cuối cùng phía ngoài khơi và về hướng đảo Phú Quốc, người ta gặp cụm hòn Củ Tron (Poulo Dama), nơi đây có một cái bãi lớn gọi là bãi Ngự, trước kia có thể là nơi trú ẩn của vua Gia Long, khi bị Tây Sơn đánh đuổi”.
Suốt thời kỳ chống Pháp, quần đảo này vẫn thuộc quyền quản lý của Việt Minh, nhưng vẫn chưa thành lập đơn vị hành chính. Hơn nữa, rất khó phân định ranh giới vì quần đảo chưa có dân.
Năm 1962, dưới thời chính quyền Sài Gòn, quần đảo Nam Du thuộc ấp Củ Tron, xã Lại Sơn, quận Kiên An. Từ ngày 14-1-1983 đổi thành xã An Sơn thuộc huyện Kiên Hải. Về phía chính quyền cách mạng, từ năm 1954-1983, quần đảo Nam Du thuộc xã Lại Sơn (6).
Chú thích:
1. Vũ Phi Hoàng, Kể về hải đảo của chúng ta, Nxb Giáo dục, tr.66, ghi là 11km 2.
2. Trong 21 hòn ở quần đảo Nam Du, thì 20 hòn đều phân bố theo chiều dọc, chỉ duy nhất có 1 hòn nằm theo chiều ngang nên gọi là hòn ngang. (Phan Thị Yến Tuyết, Sắc thái văn hoá biển của huyện Kiên Hải, Kỷ yếu hội thảo những vấn đề kinh tế, văn hoá, xã hội ở huyện đảo Kiên Hải, huyện uỷ huyện Kiên Hải – Khoa Nhân học, trường Đại học Khoa học, Xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh, ngày 31-10-2008)
3. Một trong 21 hòn ở quần đảo Củ Tron, tại đây có dây mấu, một loại dây rừng dùng để làm thuốc Nam hoặc để cột dây tiêu (Phan Thị Yến Tuyết, Sđd).
4. Đoàn Nô, Lịch sử Kiên Hải(1836-2005), tr.3-4. Thông tin trong sách Sổ tay địa danh Việt Nam,tác giả Nguyễn Dược, Trung Hải, Nxb Giáo dục, 2008, có sự khác biệt: “Quần đảo thuộc tỉnh Kiên Giang, cách bờ biển Rạch Giá 100km, gồm 21 hòn đảo đá lớn, nhỏ, trong đó có 7 hòn có người ở. Diện tích tổng cộng: 11km 2. Đảo lớn nhất là đảo Nam Du, trên đảo có núi cao 310m. Năm 1783, trong khi lưu vong, Nguyễn Ánh đã từng trốn tránh ở đây”. (tr.173)
5. Bão số 5 - Linda (ngày 2/11/1997) quét qua vùng ven biển Nam Bộ và đổ bộ vào Cà Mau - Kiên Giang lúc 19 giờ, với sức gió mạnh cấp 9, cấp 10, làm gần 3.000 người chết và mất tích, hàng chục ngàn tàu thuyền bị đắm .
6. Đoàn Nô, Sđ d, tr.30.








