Hải đảo ở vùng biển tây nam (2)
>> Hải đảo ở vùng biển tây nam
>> Hải đảo ở vùng biển tây nam (3)
Hiện nay, ngoài đồn Biên phòng 704, hải quân, hải đăng và tổ an ninh tự quản khóm 1, thị trấn Sông Đốc làm nhiệm vụ trên đảo, hòn Chuối còn có 52 hộ ngư dân với khảng 200 nhân khẩu (2007). Ngư dân trên ở đây chủ yếu làm nghề giăng câu, đi biển, đời sống còn nghèo. Trên đảo không có đường bộ. Nước ngọt phục vụ sinh hoạt rất hiếm, chủ yếu là chở từ đất liền ra. Nhằm tạo mạch nguồn nước thiên nhiên trên đảo, hiện tại công tác trồng rừng và bảo vệ rừng được thực hiện nghiêm ngặt. Chỗ ở của người dân cũng không ổn định phải di dời theo mùa, 6 tháng ở ghềnh chướng (sườn đông), 6 tháng ở ghềnh nam (sườn tây).
Hòn Buông(2)còn có tên là Ile Rockynằm ở 8 053’ vĩ độ Bắc và 104 034’ kinh độ Đông, cách hòn Chuối 8km về hướng nam-đông nam. Hòn Buông chỉ là những khối đá chồng chất lên nhau. Giữa các tảng đá là những thân cây bần biển với tàn bầu tròn trải rộng.
Về mặt cấu tạo địa chất, hòn Chuối và hòn Buông thuộc loại đá silic, hạt nhuyễn, đen và chắc (3).
Cụm Hòn Đá Bạc là một cụm 2 hòn đảo thuộc xóm Kinh Hòn, xã Khánh Bình Tây, huyện Trần Văn Thời, cách thành phố Cà Mau 50km đường thủy. Hòn có diện tích 6,43ha, nằm chếch về phía tây nam bán đảo Cà Mau, là cụm đảo đẹp gồm 3 đảo nằm sát bờ biển.
Trên đảo có nhiều cảnh đẹp như sân Tiên, giếng Tiên, bàn chân Tiên, bàn tay Tiên, chùa Cá Ông nằm trong một hệ sinh thái thực vật phong phú.
Đảo có cơ sở lưu trú và nhà hàng. Đây là địa điểm tham quan của du khách cũng như cư dân Cà Mau. Ở trên đảo có đôi rồng đang vươn mình ra biển khơi. Hiện đã có cầu bắc ra đảo nối với đất liền.
Sau năm 1975, hòn Đá Bạc là nơi diễn ra chuyên án CM12 của lực lượng công an nhân dân, đánh bại cuộc nhập biên phá hoại của bọn phản động lưu vong nước ngoài kết hợp với các thế lực thù địch trong nước do Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh cầm đầu (4).
Vùng biển của tỉnh Kiên Giang rộng gần 100.000km 2, đường bờ biển dài 200km, có 105 hòn đảo (5)(70 đảo có người ở). Trong đó lớn nhất là đảo Phú Quốc (573km 2), xa nhất là đảo Thổ Chu (cách thành phố Rạch Giá 110 hải lý). Phần lớn các đảo của Kiên Giang thuộc 5 quần đảo: Hà Tiên (Hải Tặc), Bà Lụa, An Thới, Nam Du và Thổ Chu (6).
Kiên Giang có 14 thành phố, thị xã, huyện thì đã có đến 7 đơn vị hành chính trên đất liền giáp biển Tây Nam: huyện An Minh, huyện An Biên, huyện Châu Thành, thành phố Rạch Giá, huyện Hòn Đất, huyện Kiên Lương, thị xã Hà Tiên và 2 huyện đảo: huyện Kiên Hải, huyện Phú Quốc (7).
Biển Kiên Giang là biển cạn, cách xa bờ hàng chục kílômét mà độ sâu vẫn không quá 10m. Độ sâu trung bình của biển từ 25-30m, nơi sâu nhất 50m. Nước biển ven bờ mang nhiều phù sa nên đục, có màu hơi vàng, ngoài khơi xa nước biển trong, màu xanh lơ. Nhiệt độ trung bình của nước biển là 27 0C. Đây là môi trường thuận lợi cho các loài hải sản sinh sống và phát triển, quanh năm đều có thể đánh bắt được.
Bờ biển Kiên Giang chạy từ rạch Tiểu Dừa giáp ranh với tỉnh Cà Mau đến tận Hà Tiên, giáp biên giới Campuchia. Hàng năm, bờ biển được phù sa bồi đắp khá nhanh, mỗi năm tiến ra biển được 3m (8).
Kiên Hảilà một trong 2 huyện đảo của tỉnh Kiên Giang, 1 trong 9 huyện đảo của cả nước, thành lập ngày 29-3-1983. Vị trí huyện nằm giữa biển Tây: phía bắc giáp huyện Hà Tiên và huyện Hòn Đất, nam giáp huyện An Biên và huyện An Minh, đông giáp thị xã Rạch Giá và huyện Châu Thành, tây giáp huyện Phú Quốc; tọa độ địa lý khoảng từ 104 025’- 104 040’ kinh độ Đông và 9 037’- 9 058’ vĩ độ Bắc (9), cách trung tâm thành phố Rạch Giá về hướng đông từ 30-100 km đường biển.
Khi mới thành lập huyện, Kiên Hải có 6 xã đảo và quần đảo, bao gồm: xã Hòn Tre (nơi đặt trụ sở hành chính của huyện), xã An Sơn (quần đảo Nam Du), xã Lại Sơn, xã Hòn Nghệ, xã Sơn Hải (quần đảo Bà Lụa) và xã Tiên Hải (quần đảo Hải Tặc).
Đến năm 1987, xã Tiên Hải được sáp nhập về thị xã Hà Tiên. Năm 2000, xã Hòn Nghệ và xã Sơn Hải nhập vào huyện Kiên Lương. Huyện Kiên Hải hiện gồm 4 xã là Hòn Tre, Lại Sơn, An Sơn, Nam Du; diện tích tự nhiên 27,85 km 2; gồm 23 đảo, trong đó xã An Sơn có 21 đảo (10).
Huyện Kiên Hải gồm 73 đảo, trung tâm hành chính đặt tại Hòn Tre. Hình thể huyện Kiên Hải là 3 cụm đảo và quần đảo nằm trong vùng vịnh Rạch Giá. Xã Hòn Tre trên đảo Hòn Tre; xã Lại Sơn trên đảo Sơn Rái, xã này cách trung tâm hành chính huyện 25km; xã An Sơn gồm 21 đảo của quần đảo Củ Tron (Nam Du) cách trung tâm hành chính huyện 55km.
Chú thích:
1. Khoảng 30ha, Sơn Hồng Đức, Vịnh Thái Lan, Trăm hoa miền Tây xuất bản, Sài Gòn, 1973, tr.79
2. Mục từ “Hòn Buông” chứa nhiều thông tin không chính xác khi cho rằng: “Hòn Buông: hai đảo nhỏ và thấp cách nhau 200m, ở cách bờ biển huyện Ngọc Hiển thuộc tỉnh Cà Mau 26km về phía Tây. Có rừng ngập mặn” ( Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 2, Sđd, tr.350). Trong sách Sổ tay đại danh Việt Nam(Tái bản có chỉnh lý, bổ sung, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002) của Đinh Xuân Vịnh, Hòn Buông lại bị in nhầm thành Hòn Bương và được giải thích: “Đảo nhỏ cách đảo Hòn chuối 7km về phía đông nam, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau, cách bờ biển 27km về phía Tây” (tr.304).
3. Sơn Hồng Đức, Sđd, tr.79-80
4. Chu Viết Luận (chủ biên), Cà Mau thế và lực mới trong thế kỷ XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, 2006, tr.42-43
5. Ngày 30-8-2005, sở Tài nguyên – Môi trường Kiên Giang công bố báo cáo về kết quả kiểm kê đất đai năm 2005. Vùng biển Kiên Giang hiện có 140 đảo nổi (43 đảo nổi có dân cư sinh sống), tạo nên 5 quần đảo với tổng diện tích tự nhiên 62.834,79ha. ( Báo Lao động, ngày 31-8-2005).
6. Lê Thống (chủ biên), Địa lí các tỉnh và thành phố Việt Nam, Tập 6, Các tỉnh và thành phố đồng bằng sông Cửu long, Nxb Giáo dục, 2006, tr.324.
7. Lê Phước Dũng, Thế Thị Phương (chủ biên), Tập bản đồ hành chính Việt Nam, Nxb Bản đồ, 2009, tr.78. Trong cuốn sách Công ước Biển 1982 và chiến lược biển của Việt Nam(tr.394) mặc dù xuất bản vào tháng 11-2008 nhưng chỉ ghi có 8 đơn vị hành chính của tỉnh Kiên Giang giáp với biển, thiếu huyện Kiên Lương.
8. Trần Xuân Hoàng (chủ biên), Kiên Giang điểm hẹn, Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 2000, tr.33-34
9. Đoàn Nô, Lịch sử Kiên Giang (1836-2005), Ban Thường vụ Huyện uỷ Kiên Hải, 2005, tr.3
Một tài liệu khác ghi là: 104 020’-105 0Đông và 9 037’-10 0Bắc (Lê Hồng Chương, Từ điển đơn vị hành chính Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa, 2007, tr.348).
10. Đoàn Nô, Sđd, tr.3








