GS.TSKH Trần Đình Long – Nhà khoa học của những điều lớn lao và giản dị
Cảm nhận đầu tiên khi chúng tôi gặp ông đó là vẻ bình thản và có chút gì đó chậm rãi, nhưng rất sâu lắng của một giảng viên đại học, một anh hùng lao động thời kỳ đổi mới. 50 năm học tập và giảng dạy tại Trường đại học Bách Khoa, cuộc đời ông gắn với bộ môn Hệ thống điện - bộ môn cũng vừa được nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng.
Mơ ước giản dị - việc làm lớn lao
Ông sinh ra ở Bình Định nhưng sau này được tập kết ra Bắc học tập và là lứa sinh viên khoá đầu tiên của Trường đại học Bách khoa Hà Nội. Sau đó, ông học chuyển tiếp đại học và nghiên cứu sinh ở trường đại học Năng lượng Maxcơva. Khi dự án xây dựng thuỷ điện Hoà Bình được lập ra từ năm 70 lúc đó ông học ở Nga nhưng luôn nghĩ cách phải tải điện như thế nào để các vùng miền trong cả nước đều có điện.
Tết năm 1992, khi Tổng bí thư Đỗ Mười và Bí thư thành uỷ Hà Nội Phạm Thế Duyệt đến thăm nhà và đề nghị ông nghiên cứu, đưa điện vào miền Trung, miền Nam ông thấy rất vui. Kế đó Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt lúc bấy giờ cũng khẳng định: Chính phủ thống nhất chủ trương làm (có nghĩa là tải điện) và sẽ lo về kinh phí, dư luận xã hội… Các anh phải lo về tính khả thi.
Như lúa hạn gặp nước nhưng cùng với niềm vui hân hoan đó, tâm trạng của GS Long rất căng. Ông đã mường tượng ngay được những khó khăn sẽ gặp phải, và đúng như vậy, kế hoạch của ông không nhận được sự thống nhất trong giới khoa học. Với chiều dài 1500km, đây là chiều dài 1/4 bước sóng, rất hay sảy ra tình trạng điện áp không ổn định, không cho phép vận hành trôi chảy vì những thông số kỹ thuật luôn thay đổi. Thứ nữa, với chiều dài này, chưa một nước nào trên thế giới dám làm xong ngay một lần, mà thường thường, người ta làm vài trăm kilômet, đóng điện dùng dần, rồi lại làm tiếp.. Một lo lắng nữa chính là khả năng làm chủ khoa học kỹ thuật của ta còn yếu? Nhìn sang một nước tiên tiến nhất như Mỹ, có đường dây xây dựng xong nhưng không thể đưa vào sử dụng vì hiệu quả kinh tế thấp. Còn ở ta dự toán kinh phí đầu tư lên tới 5500 tỷ đồng nhưng sau đó mà bị xếp xó thì có tội lớn với đất nước.
Từ trách nhiệm lớn, không quản ngày hay đêm, ông cùng tập thẻ kỹ sư, công nhân ngành điện lăn lộn trên những vùng núi cao, địa hình hiểm trở bất kể ngày đêm để đưa ra thông số chính xác, xây dựng xong đường dây điện huyết mạch trong thời gian ngắn kỷ lục: 2 năm. Ông nói: “Có lẽ suốt đời tôi không quên được khoảnh khắc đóng điện cho đường dây 500kV. Không thể đóng điện ở ở Hà Nội hay TP Hồ Chí Minh mà phải đóng điện ở giữa đường dây. Vì công việc, lúc đó tôi không ở Việt Nam nhưng tôi luôn để điện thoại và chờ tin tức anh em báo về. Lúc đó là nửa đêm, anh em chỉ nói một câu: mọi chuyện ổn cả. Bất giác tôi cảm thấy có cái gì đó len lỏi vào từng tế bào. Cảm giác đó có lẽ thăng hoa nhất cuộc đời tôi”.
Đường dây 500kV đi vào hoạt động, đưa Việt Nam trở thành thành viên của Hội đồng quốc tế về lưới điện lớn. Hiệu quả mang lại của đường dây lớn hơn sự mong đợi của chính ông: Chỉ trong vòng ba năm, nó không những hoàn lại số vốn khổng lồ để xây dựng mà còn làm lợi hơn 1000 tỷ đồng nữa nếu so với kinh phí khi sản xuất điện bằng đầu điêzen. Đường dây này còn giúp thống nhất hệ thống điện ba miền và là tiền đề để thành lập Tổng công ty điện lực Việt Nam ngày nay.
Còn nhiều trăn trở
Bây giờ ở thành phố, điện đã trở thành một phần tất yếu của cuộc sống nhưng nhiều vùng miền núi, vùng sâu vùng xa, dân vẫn chưa được hưởng điện sinh hoạt. Đi công tác nhiều, chứng kiến cảnh nhân dân sống dưới chân đường điện 500kV mà vẫn chịu cảnh tối tăm, lòng ông đau quặn. Trăn trở của ông hiện nay là càng sớm càng tốt phải đưa điện về tận nhà cho nông dân thông qua chính sách trợ giá cho họ. Những suy nghĩ đó của ông khiến chúng tôi cảm phục tấm lòng của một nhà khoa học luôn làm những điều lớn lao nhưng luôn đồng cảm với cuộc sống của những người dân nghèo, những người hàng ngày nhìn thấy điện mà vẫn chưa được dùng điện.
Nguồn: Khoa học và Đời sống, số 2 (1824), 6/1/2006