GS.TS Trần Hữu Dàng: Đưa khoa học và công nghệ trở thành động lực phát triển
GS có thể cho biết về những kết quả mà Liên hiệp Hội đã đạt được trong những năm qua?
GS.TS Trần Hữu Dàng:Liên hiệp Hội hiện có 39 tổ chức hội thành viên với hơn 20.000 hội viên, 7 trung tâm, 2 câu lạc bộ và một nhóm chuyên gia đánh giá tác động môi trường, xã hội trực thuộc.
Từ đầu năm nay, Liên hiệp Hội đã thực hiện được nhiều kết quả đáng mừng như tổ chức hội nghị quán triệt Chỉ thị 42-CT/TW của Bộ Chính trị, Chương trình Hành động số 01-CTr/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cương và nâng cao hiệu quả hoạt động của Liên hiệp Hội Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tập hợp, lấy ý kiến tham gia đóng góp cho các đề án phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh như đề án xây dựng Thừa Thiên Huế thành trung tâm khoa học và công nghệ của cả nước. Ngoài ra, còn tham gia góp ý sửa đổi Hiến phép năm 1992.
Chúng tôi còn tăng cường công tác thông tin phổ biến kiến thức, nâng cần suất phát hành Bản tin Khoa học và Kỹ thuật từ 3 tháng một số lên 2 tháng một số. Bản tin ngày càng được cải tiến về nội dung và hình thức. Đây cũng là tiếng nói, diễn đàn của đội ngũ trí thức Thừa Thiên Huế. Tính đến tháng 10/2014, Liên hiệp Hội đã xuất bản được 47 số Bản tin Khoa học và kỹ thuật với hơn 20.000 bản, phát hành đến tận các nhà văn hóa, bưu điện văn hóa, phòng đọc sách của tất cả các thôn trên địa bàn tỉnh.
Tiếp đến là trang thông tin điện tử tổng hợp của Liên hiệp Hội ngày càng được chú trọng cải tiến cả nội dung lẫn hình thức để dần dần trở thành kênh thông tin chính của Liên hiệp Hội.
Chúng tôi còn phối hợp với báo Thừa Thiên Huế và Hội Nông dân tỉnh thực hiện chuyên mục Khoa học và Đời sống trên báo Thừa Thiên Huế, tiến hành thông tin phổ biến kiến thức khoa học kỹ thuật cho các hội viên nông dân các huyện, thị.
Nhiều đề tài khoa học, công trình dự thi đạt giải đã được triển khai ứng dụng rộng rãi góp phần tạo ra hiệu quả kinh tế xã hội trong và ngoài tỉnh như giải pháp kỹ thuật của Công ty TNHH MTV Xây dựng và cấp nước Thừa Thiên Huế; Sử dụng chế phẩm sinh học Bokashi – Trầu vào nuôi trồng thủy sản; Nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sinh tổng hợp etylen và ứng dụng trong bảo quản chuối tiêu Nam Đông; Các giải pháp kết nối mở rộng hệ thống giám sát điều khiển và thu nhập dữ liệu cho lưới điện trung áp tỉnh Thừa Thiên Huế; Cụm công trình Chế tạo bạc nano bằng phương pháp sinh học và ứng dụng… tất cả những công trình này đã được ứng dụng rộng rãi trong nhân dân.
Từ năm 2012 đến nay, Liên hiệp Hội đã triển khai một số dự án của các tổ chức quốc tế và phi chính phủ nước ngoài như: Dự án Xây dựng năng lực cộng đồng ứng phó với biến đổi khí hậu, hỗ trợ người dân sử dụng năng lượng tái tạo cải thiện sinh kế do Đại sứ quán Phần Lan tài trợ; Dự án Huy động sự tham gia của ngư dân bảo vệ môi trường Phá Tam Giang do Vương Quốc Anh và Đan Mạnh tài trợ thông qua Quỹ Hỗ trợ Sự tham gia của người dân và Trách nhiệm giải trình của Văn phòng Quốc hội, các tiểu dự án với Tổ chức Bắc Âu trợ giúp Việt Nam NAV/NCA với tổng kinh phí trên 3 tỷ đồng.
Ngoài ra, chúng tôi còn tổ chức Giải thưởng Sáng tạo khoa học và công nghệ, Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật và Cuộc thi Sáng tạo thanh thiếu niên, nhi đồng được duy trì và tổ chức thường xuyên. Bên cạnh tổ chức Giải thưởng, Hội thi và Cuộc thi, năm nay, Liên hiệp Hội Thừa Thiên Huế đã triển khai Giải thưởng Cúp vàng Top Ten thương hiệu Việt ứng dụng khoa học công nghệ cho 13 đơn vị, doanh nghiệp tiêu biểu của tỉnh và Trung tâm xạ phẫu định vị bằng Dao Gamma của trường Đại học Y dược Huế tham gia và đoạt giải.
Sau khi thực hiện Chỉ thị 42-CT/TW của Bộ Chính trị, Liên hiệp Hội có gặp khó khăn gì không, thưa GS?
GS.TS Trần Hữu Dàng:Hiện Liên hiệp Hội là vai trò, vị trí của Liên hiệp Hội chưa được thể chế hóa theo tinh thần của Chỉ thị 42-CT/TW, tức là chưa được công nhận là tổ chức chính trị - xã hội, nên còn chịu thiệt thòi về nhiều mặt như trụ sở, phương tiện, nhân lực, chế độ phụ cấp công vụ…
Ngoài ra, việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Liên hiệp Hội vẫn còn khó khăn, lúng túng. Hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội chưa được tạo điều kiện thường xuyên và còn thụ động. Tiếp đến là vai trò điều phối hoạt động của Liên hiệp Hội đối với các hội thành viên và các tổ chức trực thuộc còn nhiều hạn chế.
Những khó khăn trên là do hệ thống Liên hiệp Hội, một phần thiếu nguồn lực như nhân lực, vật lực, tài lực. Một phần là do sự quan tâm, tạo điều kiện của các cấp, các ngành đối với Liên hiệp Hội và các hội thành viên chưa đúng mức.
Vậy GS có kiến nghị gì cho việc khó khăn này?
GS.TS Trần Hữu Dàng:Chúng tôi chỉ mong Đoàn Chủ tịch Hội đồng Trung ương tiếp tục tham mưu, thúc đẩy Chính phủ phê duyệt các đề án thực hiện Chỉ thị 42-CT/TW, nhất là đề án về tài chính. Và mong Chính phủ thể chế hóa việc công nhận Liên hiệp Hội Việt Nam và Liên hiệp Hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là tổ chức chính trị - xã hội theo tinh thần Chỉ thị 42-CT/TW, tạo điều kiện để thực hiện các cơ chế, chính sách liên quan đến tổ chức và hoạt động của Liên hiệp Hội.
Xin cảm ơn GS về cuộc trao đổi!








