Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 07/06/2006 14:03 (GMT+7)

GS.Đinh Gia Khánh với sự nghiệp nghiên cứu văn hoá dân gian

Trước Cách mạng tháng Tám 1945, ông trau dồi học vấn tại Hà Nội. Từ tháng 9/1945 đến 12/1946, ông dạy Triết học và tiếng Anh ở trường Trung học ChuVăn An (Hà Nội). Sau mấy tháng làm báo ở Trung đoàn Thăng Long, từ tháng 4/1947 đến 9/1951, ông dạy tiếng Anh và Triết học tại trường Trung học Hàn Thuyên (thị xã Bắc Ninh). Từ tháng 10/1951 đến 6/1956, ông dạy văn ở trường Trung cấp Sư phạm tại Khu học xá Trung ương (đóng tại Trung Quốc). Từ tháng 9/1956 đến năm 1983, ông giảng dạy Văn học và Hán Nôm tại trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.

Năm 1980, ông được Nhà nước phong chức danh Giáo sư.

Trong những năm 80 của thế kỷ XX ông đảm nhiệm nhiều trọng trách: Tổng biên tập Tạp chí Văn hoá dân gian, Viện trưởng Viện văn hoá dân gian, Tổng thư ký Hội văn nghệ dân gian Việt Nam , Uỷ viên Uỷ ban tư vấn của UNESCO cho việc nghiên cứu văn hoá Đông Nam Á.

GS mất ngày 7/5/2003. Trong nỗi niềm thương tiếc, đáp ứng yêu cầu thông tin của đông đảo bạn đọc, chúng tôi trích in lại bài viết của GS.TS Nguyễn Xuân Kính. Bài đã in trong tạp chí Nguồn sáng dân gian.

1. Nhà nghiên cứu Văn học đầu ngành

Đã có hơn 30 năm GS. Đinh Gia Khánh đọc bài giảng về Văn học trung đại Việt Nam (từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XVIII) tại trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Về kết quả nghiên cứu, biên soạn, ông là chủ biên Hợp tuyển thơ văn Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XVII (xuất bản 1963), chủ biên Văn học Việt Nam (hai tập, 1964), chủ biên Văn học Việt Nam thế kỷ X - nửa đầu thế kỷ XVIII (hai tập, 1978 - 1979), chủ biên Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm (1983). Trong quá trình Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức biên soạn công trình Lịch sử văn học Việt Nam, tập I (NXB Khoa học xã hội, 1980), ngoài cương vị là một trong số những tác giả chính, GS.Đinh Gia Khánh còn được giao trách nhiệm xử lý bản thảo lần chót. Đặc biệt ông được giao nhiệm vụ làm Chủ tịch Hội đồng biên tập bộ Tổng tập văn học Việt Nam . Đây là tổng tập văn học viết, tập 1, được xuất bản năm 1980. Năm 2000, bộ sách này được tái bản có sửa chữa, bổ sung, gồm 42 tập.

Trong lĩnh vực phiên dịch Hán Nôm, ông cùng GS.Nguyễn Lương Ngọc phiên âm Thiên Nam ngữ lục (1958), ông khảo cứu văn bản và là đồng dịch giả Lĩnh Nam chích quái (1960, tái bản 1990).

Về ngôn ngữ học, ông viết bài: “Từ cai nghiệt đến cay nghiệt hay là từ tác giả đến công chúng” (1973), bài “Tìm hiểu từ nghĩ trong ngôn ngữ cổ” (1978 - 1979).

Trước khi trở thành nhà nghiên cứu văn học dân gian, GS.Đinh Gia Khánh đã có những cống hiến to lớn đối với khoa nghiên cứu văn học dân gian.

Bên cạnh việc giảng bài tại trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, đi điền dã cùng các sinh viên, hướng dẫn sinh viên, nghiên cứu sinh viết luận văn tốt nghiệp, hoàn thành luận án về văn học dân gian, GS.Đinh Gia Khánh còn công bố những cuốn sách, những bài viết về lĩnh vực này. Những đóng góp của GS.Đinh Gia Khánh trong việc nghiên cứu folklore ngôn từ được thể hiện không chỉ ở phương diện tổng kết, hệ thống các kết quả nghiên cứu của cả giới nghiên cứu văn học dân gian mà còn ở phương diện đề xuất những định hướng nghiên cứu quan trọng có tác dụng thúc đẩy sự phát triển chung của cả ngành nghiên cứu văn học dân gian.

Năm 1962, giáo trình Văn học dân gian Việt Nam (478 trang) dành cho sinh viên khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội của Đinh Gia Khánh và Chu Xuân Diên được Nhà xuất bản Giáo dục công bố. Cùng với cuốn giáo trình về văn học dân gian được dùng trong các trường đại học sư phạm (in lần đầu năm 1961, tập thể tác giả: Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Ngọc Côn, Nguyễn Nghĩa Dân, Lý Hữu Tấn, Hoàng Tiến Tựu, Đỗ Bình Trị, Lê Trí Viễn) đấy là một trong những cuốn sách đầu tiên dưới chế độ mới trình bày một cách hệ thống, với một cách nhìn mới thuyết phục hơn (so với các công tình được in trước Cách mạng tháng Tám 1945) về folklore ngôn từ người Việt.

Mười năm sau, một bộ giáo trình Văn học dân gian khác cũng của hai tác giả Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên (do Đinh Gia Khánh làm chủ biên) ra mắt bạn đọc. Sau khi đất nước thống nhất, năm 1977, sách này được tái bản (không sửa chữa), phục vụ kịp thời sinh viên các trường Đại học tổng hợp cả nước.

Năm 1991, giáo trình này được in lần thứ ba. Trong lần in này, các tác giả chỉ biên soạn lại danh mục “Sách báo tham khảo chính”, còn các phần khác hầu như vẫn giữ nguyên nội dung và bố cục của bản in lần đầu, trừ một vài sửa chữa nhỏ không quan trọng.

So với tập giáo trình đầu tay xuất bản năm 1962, trong bộ giáo trình này, cùng với sự phát triển chung của cả khoa nghiên cứu văn học dân gian nước nhà, GS.Đinh Gia Khánh cùng với người cộng sự đắc lực, người bạn đồng nghiệp vốn là học trò cũ, PGS.Chu Xuân Diên đã đạt được những kết quả rất quan trọng. đó là việc lý giải sâu sắc, toàn diện đặc trưng của văn học dân gian, việc trình bày lịch sử sưu tầm và nghiên cứu văn học dân gian ở Việt Nam, việc nghiên cứu văn học dân gian người Việt theo tiến trình lịch sử bên cạnh việc phân tích nó theo thể loại. Cùng với thời gian, những người đi sau có thể điều chỉnh hoặc bàn lại luận điểm này hay nhận xét kia của bộ sách, nhưng nhìn chung giáo trình này là một thành tựu khó vượt qua về tính chất hoàn chỉnh và toàn diện, tính chất này thể hiện ở hệ thống các vấn đề, các chương mục và trong việc phân tích, lý giải từng vấn đề.

Đối với việc nghiên cứu truyện cổ tích, cuốn sách “Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích qua truyện Tấm Cám” (1968) của GS.Đinh Gia Khánh có tiếng vang một thời. Trước khi viết chuyên luận này, năm 1962, trên tập san nghiên cứu văn học (số 3), ông đã công bố bài báo công phu “Qua việc nghiên cứu các danh từ riêng trong một số truyện cổ tích”.

Ra đời vào những năm tháng mà ở Việt Nam khoa nghiên cứu văn học dân gian đang ở những bước đi ban đầu, bài báo và cuốn sách vừa nêu của GS.Đinh Gia Khánh đã có tác dụng lớn. Đặc biệt, trong cuốn sách vừa nêu, trên cơ sở khối tư liệu phong phú mà tác giả đã giới thiệu một số ở phần phụ lục (86 trang), ông đã nghiên cứu truyện “Tấm Cám” ở nước ra, và do tính chất tiêu biểu của truyện này, qua việc nghiên cứu toàn diện về nó, ông đã đề cập đến những vấn đề quan trọng của chuyên ngành cổ tích học.

Đối với ca dao, dân ca, bài viết “Nhận xét về đặc điểm của câu mở đầu trong thơ ca dân gian” (1996) của GS.Đinh Gia Khánh cắm một cái mốc quan trọng trong lịch sử nghiên cứu thi pháp ca dao.

Đối với thể loại vè, ông công bố bài báo rất đáng chú ý: “Cần xác định rõ hơn nữa giá trị của vè, một thể loại văn học dân gian đầy tính chiến đấu” (1966).

Hiện nay chúng ta dễ dàng thống nhất với nhau trong nhận thức về vai trò quan trọng, vai trò làm nền của dòng văn học dân gian trong nền văn học dân tộc.

Nhưng cách đây trên ba chục năm, tình hình không phải như vậy, lúc đó ngay cả một vài nhà nghiên cứu văn học có uy tín đáng kính cũng còn xem nhẹ vị trí và tác dụng của văn học dân gian. Đăng các bài giảng, bài viết, chương sách, GS.Đinh Gia Khánh kiên trì khẳng định tầm quan trọng của dòng văn học này, với cách diễn đạt càng ngày càng nói rõ hơn quan điểm của mình. Bài “Vai trò chủ đạo của văn học dân gian” đăng trên tập san văn hóa (năm 1970, số 3) là một trong những bài viết của Đinh Gia Khánh nhằm giải quyết những vấn đề lớn, có tính chất phương pháp luận, tính chất mở đường.

*

GS.Đinh Gia Khánh thành thạo tiếng Pháp và tiếng Anh, biết Hán Nôm (sự hiểu biết này chủ yếu do tự học). Ông bao quát cả văn học viết và văn học dân gian, nhiều năm làm tổ trưởng tổ Văn học viết trung đại và Văn học dân gian, đã định hướng nghiên cứu các có ảnh hưởng tích cực đến một đội ngũ những người nghiên cứu và giảng dạy văn học viết, văn học dân gian. Trong số đó hôm nay, không ít người đã thành công hoặc thành danh như Bùi Duy Tân, Nguyễn Lộc, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn, Lê Chí Quế… Giáo sư không phải là một hiện tượng cá biệt, mà là người tiêu biểu cho một “típ” nhà trí thức, nhà khoa học của một thời kỳ mà có lẽ lịch sử sẽ không lặp lại.Cùng với GS.Bùi Văn Nguyên - Đại học Sư phạm Hà Nội, GS.Đinh Gia Khánh là nhà khoa học, nhà giáo tiêu biểu cho lớp người của một thời kỳ lịch sử nhất định. Ngày nay với sự phân ngành và phát triển của khoa học, các chuyên gia thường thể hiện mình trong lĩnh vực chuyên môn sâu và hẹp hơn, tất nhiên cũng có xu hướng nghiên cứu liên ngành hoặc tổng hợp.

2. Người đặt nền móng cho khoa nghiên cứu văn học dân gian

Tháng 12/1979, GS.Đinh Gia Khánh được cử làm Trưởng ban Văn hoá dân gian (tiền thân của Viện Nghiên cứu Văn hoá dân gian hiện nay).

Sau 10 năm ra đời của Ban Văn hoá dân gian, chuyên luận Trên đường tìm hiểu văn hoá dân gian của ông được xuất bản. Trong 10 năm ấy, giới nghiên cứu văn hoá dân gian Việt Nam đã đạt được những thành tựu bước đầu trong việc sưu tầm tài liệu, trong việc nghiên cứu khoa học. Trên cơ sở đó, giới nghiên cứu văn hoá dân gian đã có bước tiến với một trình độ nhất định về lý luận và phương pháp luận. Yêu cầu khách quan của khoa học cũng như sự chín muồi của nó đòi hỏi và cho phép ra đời những công trình có giá trị tổng kết. Tuy với nhan đề khiêm tốn, nhưng về thực chất, cuốn sách của GS.Đinh Gia Khánh đã vươn tới sự khái quát cao, đặt nền móng cho sự phát triển của ngành folklore Việt Nam sau này.

Một trong những đóng góp quan trọng của cuốn sách là việc giới thiệu khái niệm “văn hoá dân gian”. Theo tác giả, văn hoá là tiến trình trong đó con người không ngừng phấn đấu nhằm mục đích cải tạo và khai thác tự nhiên ngày càng có hiệu quả hơn và xây dựng những mối quan hệ xã hội ngày càng tốt đẹp hơn, mà đồng thời cũng là tổng thể những thành tựu đã đạt tới và những kinh nghiệm đã thu được trong tiến trình ấy. Xét cho kỹ, văn hoá chính là tiến trình loài người tạo ra bản thân mình (tr.17-18).

Trong chuyên luận Trên đường tìm hiểu văn hoá dân gian, với sự bao quát rất rộng những tài liệu ở Trung Quốc cổ đại, Hy Lạp cổ đại, GS.Đinh Gia Khánh khẳng định: Từ lâu các nhà văn hoá đã biết tiếp thu giá trị văn hoá, nghệ thuật dân gian; tuy nhiên phải đợi đến sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhận thức về folklore như một đối tượng khoa học mới được từng bước hình thành ở khoa học phương Tây. Tác giả cũng không quên giới thiệu các quan niệm của các nhà khoa học mácxít về văn hoá dân gian.

Sự phân tích của GS.Đinh Gia Khánh là thỏa đáng. Nhân đây, cần nói thêm rằng tác giả là người đầu tiên đưa khái niệm “tính chất nguyên hợp” vào khoa nghiên cứu văn hoá, nghệ thuật dân gian Việt Nam. Từ những năm 1972 - 1973, người đọc thấy khái niệm này xuất hiện trong bộ giáo trình Văn học dân gian (hai tập) do ông làm chủ biên.

Trong sách Trên đường tìm hiểu văn hoá dân gian, tác giả cũng phân tích các thành tố cơ bản của văn hoá dân gian và viết về sinh hoạt văn hoá dân gian.

Khi hệ thống hoá các loại vấn đề lớn của khoa folklore, GS.Đinh Gia Khánh quan tâm đến bốn loại vấn đề: lịch sử folklore, lý luận folklore; phương pháp luận folklore và công tác khảo sát, điều tra tư liệu, thông tin. Khi viết về lịch sử folklore và lịch sử khoa nghiên cứu văn hoá dân gian ở Việt Nam, tác giả có nhiều thuận lợi bởi vì 18 năm về trước, ông đã cùng với Chu Xuân Diên trình bày việc sưu tập, nghiên cứu văn học dân gian ở Việt Nam và đưa ra một phác thảo về lịch sử văn học dân gian người Việt. Theo GS.Đinh Gia Khánh, bộ môn lý luận về folklore có chức năng đi sâu tìm hiểu những vấn đề thuộc bản chất folklore và thuộc mối tương quan giữa folklore và các hiện tượng, các sự kiện có ảnh hưởng qua lại với folklore; bộ môn này hướng sự cố gắng vào việc tìm ra những quy luật chung nhất gắn với sự tồn tại và phát triển của folklore. Những vấn đề như tính nguyên hợp, tính dân gian, tính nhân dân, tính dân tộc, tính địa phương, tính quốc tế, tính phổ cập, mối quan hệ giữa folklore và tính phổ cập, mối quan hệ giữa folklor và thực tại, folklore hiện đại… luôn thu hút sự chú ý của các nhà lý luận về văn hoá dân gian. Còn nhiệm vụ của bộ môn Phương pháp luận? Theo GS.Đinh Gia Khánh, bộ môn này có chức năng đặt ra phương hướng đúng để tiếp cận đối tượng. Các phương pháp cơ bản được áp dụng trong việc nghiên cứu folklore là: phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh và phương pháp tổng hợp.

Cuốn sách vừa đúc kết những vấn đề cơ bản, vừa gợi mở để chúng ta tiếp tục suy nghĩ về những vấn đề mà tác giả chưa có điều kiện đi sâu hoặc chưa phân tích hết tất cả các khía cạnh tinh vi, cụ thể của chúng. Tính chất nguyên hợp có phải là thuộc tính của tất cả các thể loại văn học dân gian hay không, mức độ đậm nhạt, đặc thù của nó thể hiện trong các thành tố của văn hoá dân gian như thế nào? Đặc trưng của văn hoá dân gian hiện đại, thi pháp của nó có gì kế tục và những gì đổi mới khác với truyền thống? Đó là những điều mà giới nghiên cứu cần tiếp tục trao đổi.

Với tư cách là người quản lý, GS.Đinh Gia Khánh đề xuất nhiệm vụ phối hợp với các tỉnh trong việc biên soạn địa chỉ văn hoá dân gian: Địa chí Vĩnh Phú, Văn hoá dân gian vùng Đất Tổ (1986) do Xuân Thiêm, Ngô Quang Nam chủ biên; Địa chí văn hoá dân gian Nghệ Tĩnh (1995) do GS.Nguyễn Đổng Chi chủ biên,… Với tư cách là nhà khoa học, GS.Đinh Gia Khánh là chủ biên Địa chí văn hoá dân gian Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội (1991). GS.Đinh Gia Khánh còn là tác giả của nhiều cuốn sách khác.

Với trách nhiệm của người quản lý, GS.Đinh Gia Khánh đã tích cực xây dựng Ban Văn hoá dân gian và Tạp chí Văn hoá dân gian ngay từ những ngày hai tổ chức này còn trứng nước, gặp không biết bao nhiêu khó khăn, thiếu thốn. Xuất phát từ sự khởi động ban đầu bởi uy tín khoa học và khả năng tập hợp đội ngũ của ông cùng với sự nỗ lực của nhiều người khác, Viện Nghiên cứu văn hoá dân gian và Tạp chí văn hóa dân gian hôm nay đã có những đóng góp đáng kể đối với khoa folklore học Việt Nam.

GS.Đinh Gia Khánh đã được tặng thưởng Huân chương lao động hạng Nhất, Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I (1996)… Tuy ông đã ra đi nhưng sự nghiệp của ông, những cống hiến khoa học của ông sẽ còn lâu dài cùng năm tháng. Từ những kinh nghiệm thành công và cả những kinh nghiệm chưa thành công của nhà khoa học đầu ngành này, các thể hệ đi sau sẽ rút ra được nhiều bài học bổ ích trên con đường đi lên phía trước.

Nguồn: http://100years.vnu.edu.vn

Xem Thêm

Tôn vinh và tri ân một nghề cao quý nhất
Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 hằng năm là dịp để toàn xã hội tôn vinh và tri ân những người thầy, người cô đã tận tụy cống hiến cho sự nghiệp trồng người. Đây không chỉ là ngày lễ ý nghĩa trong ngành giáo dục mà còn mang tính nhân văn sâu sắc, gắn kết tinh thần “tôn sư trọng đạo” - truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
GS.TSKH Nguyễn Đức Cương: Khoa học phải luôn mở rộng hợp tác và học hỏi
GS.TSKH Nguyễn Đức Cương, một trong những nhà khoa học hàng đầu về hàng không - vũ trụ của Việt Nam, đã có hơn nửa thế kỷ cống hiến cho ngành khoa học kỹ thuật hàng không vũ trụ. Không chỉ là người đặt nền móng cho các sản phẩm bay tiết kiệm chi phí cho Việt Nam, ông còn là người thầy tâm huyết, truyền cảm hứng và kiến thức cho nhiều thế hệ trẻ…
An Giang: Người thắp lửa sáng tạo cho học sinh tiểu học
Đam mê đặc biệt với khoa học và sáng tạo, thầy giáo Nguyễn Văn Trung đã không ngừng nỗ lực truyền cảm hứng cho học sinh tiểu học, đồng thời hướng dẫn các em đạt được những thành tích ấn tượng ở cả cấp tỉnh lẫn cấp quốc gia.
Phú Yên: Những nữ trí thức góp phần cải thiện đời sống người dân
Trong thời kỳ hội nhập, sự phát triển của khoa học và công nghệ đóng vai trò là nền tảng thúc đẩy các ngành kinh tế - xã hội khác phát triển. Đặc biệt, trong lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH&CN) nữ trí thức không chỉ thể hiện khả năng sáng tạo, nghiên cứu mà còn góp phần tạo ra những ứng dụng thực tiễn giúp cải thiện đời sống người dân và phát triển kinh tế.
Tấm gương sáng trong nghiên cứu và bảo tồn di sản lịch sử
Ông sinh năm1948 tại Phường Hồng Hà, thị Yên Bái, là nhà khoa học tâm huyết, là tấm gương sáng về lòng kiên trì, sự đam mê nhiên cứu và cống hiến hết mình cho sử học của tỉnh Yên Bái. Những đóng góp của Nguyễn Văn Quang đối với ngành sử học đã để lại những dấu ấn sâu sắc và có ý nghĩa to lớn trong việc bảo tồn di sản lịch sử địa phương nơi có nhiều di tích lịch sử và văn hóa dân tộc vùng cao.
Trí thức tiêu biểu Nguyễn Tiến Quyết - Người chinh phục khoa học để lấy mạng sống cho con người!
Nhắc đến ông là nhắc đến chân dung của một người thầy thuốc tâm huyết, nhà khoa học nhiệt thành và một nhà giáo với tình yêu nghề đậm sâu. Có thể nói, xuyên suốt chặng đường cống hiến không ngừng nghỉ đã qua, bằng tâm sức, niềm đam mê khoa học bất tận, ông đã có những cống hiến đáng tự hào cho nền y tế nước nhà.

Tin mới

Cụm thi đua số 3 tổng kết công tác năm 2024
Ngày 22/11, tại thị xã Sa Pa, Hội nghị tổng kết công tác thi đua, khen thưởng năm 2024, triển khai phương hướng nghiệm vụ năm 2025 của Cụm thi đua số 3 do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Lào Cai làm cụm trưởng đã được tổ chức.
Quảng Ngãi: Tuyên truyền chủ trương của Đảng cho trí thức
Chiều ngày 19/11, Liên hiệp Hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức hội nghị thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề: “Tình hình xung đột Israel-Hamas, Hezbollah; xung đột Nga-Ukraine. Tác động và xử lý của Việt Nam”.
Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp giảm thiểu tác động của đốt mở tại Việt Nam
Mặc dù 68% số người được khảo sát có ý thức về môi trường, 80% có ý thức về sức khỏe, nhưng vẫn thể hiện sẽ tiếp tục “đốt đồng” (đốt lộ thiên/đốt mở trong nông nghiệp), với lý do chủ yếu “vì tin có tác dụng tốt, nhanh, rẻ”. Do vậy, cần có giải pháp truyền thông phù hợp để thay đổi thói quen này.
Phát huy vai trò, trách nhiệm của trí thức KH&CN & LHHVN trong hoạt động của MTTQVN các cấp
Nhằm thảo luận, đề xuất các giải pháp đẩy mạnh và phát huy sức mạnh trí tuệ của đội ngũ trí thức trong hệ thống LHHVN tham gia vào các hoạt động của MTTQVN, nhất là trong hoạt động TV,PB&GĐXH, LHHVN tổ chức Hội thảo Giải pháp phát huy vai trò, trách nhiệm của trí thức trong hoạt động của MTTQVN các cấp. Hội thảo được tổ chức vào chiều ngày 19/11, tại trụ sở LHHVN.
Tôn vinh và tri ân một nghề cao quý nhất
Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 hằng năm là dịp để toàn xã hội tôn vinh và tri ân những người thầy, người cô đã tận tụy cống hiến cho sự nghiệp trồng người. Đây không chỉ là ngày lễ ý nghĩa trong ngành giáo dục mà còn mang tính nhân văn sâu sắc, gắn kết tinh thần “tôn sư trọng đạo” - truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Mạng lưới cơ sở giáo dục đại học phải đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng cao
Việc quy hoạch lại hệ thống cơ sở giáo dục đại học và sư phạm giúp các cơ sở này nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu và khả năng thích ứng với những thay đổi của xã hội và nền kinh tế, cần tính toán nhu cầu đặc biệt quan trọng của đất nước về nguồn nhân lực chất lượng cao như kỹ sư bán dẫn, kỹ sư vận hành đường sắt tốc độ cao…