GS. Dương Thị Cương - Tận tuỵ với bệnh nhân, say mê với khoa học
Ngay từ những ngày đầu làm việc, bác sĩ trẻ Dương Thị Cương đã có ý thức tự rèn luyện, mở rộng tầm hiểu biết, nhất là lĩnh vực sản phụ khoa. Vốn yêu nghề, lại thừa hưởng truyền thống hiếu học của giađình (bà là con gái của GS Dương Quảng Hàm - BBT), bà tự học ngoại ngữ để nghiên cứu tài liệu y học của các nước và nghiên cứu đặc điểm các bệnh phụ khoa để tìm cách chữa trị cho phù hợp. ở ViệnBVSKBMTSS, bà đã chứng kiến nhiều căn bệnh quái ác riêng có ở phụ nữ: bướu trung sản, lao sinh dục, ung thư nhau, u ác tính buồng trứng, ung thư cổ tử cung... Ví như bệnh tắc vòi trứng, một căn bệnhcó nguy cơ dẫn đến vô sinh (đứng hàng thứ hai sau nguyên nhân nội tiết), bệnh nhân sẽ không có hạnh phúc được làm mẹ. Về phương pháp điều trị, mới chỉ có cách mổ để thông vòi trứng, nối vòi trứng, gỡdính... Nhưng trong nhiều trường hợp không thể mổ được (vì điều kiện sinh hoạt, vì tình trạng viêm dính...), chẳng lẽ phải khoanh tay đứng nhìn? Thực trạng đó khiến bác sĩ Cương trăn trở và qua tàiliệu nước ngoài, bà và nhóm điều trị vô sinh của Viện đã nghiên cứu, áp dụng phương pháp dùng Cortisone và kháng sinh điều trị chống viêm dính cho kết quả tốt.Cảm thông với những đau đớn, khó nhọc của người phụ nữ khi "vượt cạn" và thấu hiểu nỗi bất hạnh mà họ phải đương đầu, bà cũng đã nghiên cứu, công bố một số đề tài như "Các chỉ định hạ tỷ lệ tử vongmẹ và con khi chuyển dạ đẻ", "Kinh nghiệm xử trí ngôi ngang", các đề tài có liên quan đến ung thư buồng trứng, ung thư nhau, liên quan đến thai nhi và trẻ sơ sinh... Cùng thời gian này, bà đã bắt đầunghiên cứu các đề tài ung thư cổ tử cung, ung thư vú, ung thư niệm mạc tử cung... Càng chuyên sâu vào nghề, bà càng bận rộn hơn, trách nhiệm nặng nề hơn. Có lần, một bệnh nhân trẻ quê ở Thái Bình bịnghi là ung thư cổ tử cung. Sau khi khám, phân tích, xét nghiệm và hội chẩn, các bác sĩ đã quyết định mổ cắt tử cung. Nhưng bằng cảm giác, kinh nghiệm, bà thấy nghi hoặc nên quyết định xin thêm thờigian để theo dõi. Bà đã không nhầm, người phụ nữ ấy chỉ bị viêm nhiễm chứ không phải ung thư!
Gần gũi và đồng cảm với người bệnh, hiểu nỗi đau của họ, bác sĩ Dương Thị Cương luôn đứng về lợi ích của họ mà hành động vì mục đích cuối cùng là cứu sống bệnh nhân. Có nhiều gia đình quá tuyệt vọngđã xin cho bệnh nhân về, bà đã giải thích cho họ hiểu, đề nghị ở lại Viện để hết lòng cứu chữa, nếu kéo dài cuộc sống của bệnh nhân thêm được ít năm cũng đã là thành công. Lại có trường hợp bệnh nhânmới hơn 20 tuổi bị ung thư buồng trứng đã lan rộng, một bệnh viện đã mổ song không thể giải quyết được, họ đành khâu lại, gửi cấp cứu đến Viện trong tình trạng bệnh nhân đang ngạt thở, bụng đầy nước,tính mạng bị đe doạ... Xác định trường hợp xấu nhất có thể xảy ra nhưng không thể để bệnh nhân chết trên bàn mổ! Rất may khối u đã được cắt bỏ an toàn. Ca mổ thành công và cô gái sống thêm được 10năm nữa... Cứ như thế, con đường làm nghiên cứu khoa học của bà đi cùng với những thành công từ những ca bệnh hiểm nghèo do bà chữa trị.
42 năm công tác, "con người của công việc" ấy đã hoàn thành 83 đề tài nghiên cứu khoa học các cấp về sản, phụ, sơ sinh. Trong đó, có 1 đề tài cấp Nhà nước, 1 đề tài cấp Bộ và 5 đề tài hợp tác quốc tếdo Tổ chức Y tế thế giới chủ trì. Tất cả đều được đánh giá tốt, mang lại lợi ích không nhỏ trong việc chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ của bà mẹ và trẻ em. Ngoài ra, bà còn tích cực viết các bài báo khoahọc, tham gia viết sách phục vụ sinh viên y khoa, dịch nhiều sách về sản phụ khoa và tham gia viết Từ điển Y học... Năm 1990, bà được phong danh hiệu Nhà giáo ưu tú. Năm 1999, bà được Bộ Y tế tặngbằng khen "Thực hiện xuất sắc 12 điều y đức" và năm 2000, được Nhà nước tặng phần thưởng cao quý: Huân chương Lao động hạng Ba.
Việc trao giải thưởng Kovalepskaia là sự ghi nhận những cống hiến của bà đối với khoa học, đồng thời cũng là sự tri ân của bao bà mẹ, người vợ từng là bệnh nhân của bà, được bà cứu chữa, đang sốnghạnh phúc. Rất nhiều ông bố, bà mẹ để tỏ lòng biết ơn người bác sĩ đã cứu sống vợ và con họ, đã lấy tên bà đặt cho con mình.
GS Dương Thị Cương cùng chồng GS. Vũ Văn Đính |