Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 27/08/2008 01:01 (GMT+7)

GS - BS Nguyễn Thị Ngọc Toản: Người xoa dịu nỗi đau da cam

GS-BS Nguyễn Thị Ngọc Toản tên thật là Tôn Nữ Ngọc Toản. Bà sinh ra trong một gia đình quý tộc (cụ tổ là Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần, thân phụ là Tôn Thất Đàn - từng giữ chức Thượng thư Bộ Hình dưới triều Nguyễn, chị gái là Tôn Nữ Thị Cung (phu nhân của GS Đặng Văn Ngữ), anh trai là GS Tôn Thất Lang, em trai là GS Tương Lai. Chồng của bà - Trung tướng Cao Văn Khánh, nguyên Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam . Ông đã có nhiều đóng góp trong cả 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Năm 1954, ông bà đã tổ chức đám cưới tại Điện Biên Phủ, ngay trong hầm của viên tướng Pháp bại trận Christian de Castries.

“Mắc nợ” với lương tâm

Nhiều người nghĩ GS-BS Nguyễn Thị Ngọc Toản dành thời gian, công sức nghiên cứu, đấu tranh cho các nạn nhân chất độc da cam vì chồng bà (Trung tướng Cao Văn Khánh) và người con trai út (Cao Quý Võ) đã chết vì căn bệnh ung thư gan do di chứng của chất độc da cam. Đó quả thật là một lý do quan trọng, nhưng có lẽ ít ai biết rằng những trăn trở về một loại thương tích đã để lại những đau thương, mất mát hơn mọi vết thương, kéo dài qua nhiều thế hệ, đã được bà đặt dấu hỏi từ cách đây hơn 40 năm.

Trong căn hộ tập thể giản dị, ký ức của GS-BS Nguyễn Thị Ngọc Toản như một cuốn phim quay chậm mà mỗi hình ảnh lại gợi nỗi đau nhức nhối. Năm 1967, bà từng tham gia đợt khảo sát, nghiên cứu hiện tượng mất kinh nguyệt của hơn 1.000 nữ thanh niên xung phong ở khu vực Trường Sơn. Cuộc điều tra đã đưa ra kết luận: Sức ép tâm lý, sự cận kề cái chết, sự thiếu thốn về vật chất và tuổi đời còn ít (khai tăng tuổi để được ra chiến trường)… là nguyên nhân chính gây nên những rối loạn trong cơ thể của các nữ thanh niên xung phong (hầu hết những người này đã có kinh nguyệt trở lại sau khi chuyển vào môi trường sống tốt hơn), nhưng cũng từ khi ấy, bà đã có một dự cảm không lành. Sau đó, bà từng tham gia xét thương tật cho các đối tượng nữ, và một lần nữa chất độc da cam (kẻ thù giấu mặt) lại chưa bị lộ diện. Nhiều người phụ nữ trở về lành lặn, không có vết thương trên thân thể nhưng sau này đã vĩnh viễn mất cơ hội được làm mẹ, làm vợ, phải chịu trăm ngàn nỗi đau âm thầm…       

Nhắc đến những chuyện đau lòng trong quá khứ, nước mắt lại lăn dài trên gương mặt của bà. Bà bộc bạch: Tôi đấu tranh cho các nạn nhân da cam, không chỉ vì tôi là “người trong cuộc” nên thấm thía nỗi đau của họ, mà còn vì tôi là một nhà khoa học. Đã là nhà khoa học chân chính thì phải luôn tôn trọng sự thật và mọi hoạt động phải phụng sự lợi ích của cộng đồng. Hơn nữa, tôi từng là một nhà khoa học đầu ngành với trách nhiệm bảo vệ sức khỏe của người phụ nữ Việt Nam , để họ sinh ra những đứa con lành lặn, mạnh khỏe… nhưng tôi thấy mình chưa làm tròn nhiệm vụ. Đó là điều khiến tôi day dứt không yên, tôi thấy mình mắc nợ với nhiều chị em. Mặc dù khi ấy ảnh hưởng của chất độc da cam vẫn còn là một ẩn số nhưng dù sao các nhà khoa học, trong đó có tôi cũng đã phần nào có lỗi vì chưa kịp thời phát hiện ra những ảnh hưởng kinh hoàng của loại chất độc này.

Cuộc chiến trong thời bình

Năm 1970, GS Tôn Thất Tùng đã có những nghiên cứu về vấn đề ung thư gan ở những chiến sỹ giải phóng quân và các trường hợp dị tật, quái thai ở con cái họ. GS-BSNguyễn Thị Ngọc Toản cùng với các GS-BS: Tôn Thất Lang (anh trai bà), Lê Cao Đài, Hoàng Đình Cầu cũng bắt tay vào nghiên cứu di chứng mà chất độc da cam gây ra cho con người. Những nghiên cứu này đãkhiến mọi người phải quan tâm và nhìn nhận đúng hơn về tác hại của chất độc da cam. Tuy nhiên, mãi đến khi về hưu, GS-BS Nguyễn Thị Ngọc Toản mới có điều kiện dành toàn bộ thời gian và tâm sức chocuộc chiến chống lại những nỗi đau mà chất độc da cam gây ra. Cùng với GS-BS Lê Cao Đài, bà tình nguyện tham gia Ủy ban 10-80 - Ủy ban đầu tiên được thành lập với nhiệm vụ nghiên cứu về những ảnhhưởng của chất độc hóa học mà quân đội Mỹ đã sử dụng trong chiến tranh Việt Nam . Bà là một trong những người đầu tiên đứng ra vận động các cơ quan, các nhà lãnh đạo để xây dựng Quỹ Ủng hộ nạn nhânchất độc da cam (ra đời năm 1997), tiếp đó là Hội Nạn nhân chất độc da cam (ra đời năm 2003). “Bệnh án da cam” đầu tiên là bệnh án của nguyên Bộ trưởng Y tế Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ViệtNam - Dương Quỳnh Hoa, do chính tay bà chuẩn bị và gửi đi làm bằng chứng khi Việt Nam quyết định khởi kiện các nhà máy hóa chất của Mỹ. Bà đã từng đi tới khắp các kho tập kết chất độc hóa học của Mỹtrong chiến tranh như Biên Hòa (Đồng Nai), Aso, A Lưới (Thừa Thiên - Huế), Phù Cát (Bình Định)… để tìm hiểu và thu thập những “bằng chứng da cam”. Trong những chuyến đi này, bà và các đồng nghiệp đãphát hiện ra sự thật kinh hoàng: Có những nơi nồng độ nhiễm độc dioxin cao gấp cả ngàn lần mức cho phép và còn không ít người dân vẫn đang phải sống ở những nơi có nguy cơ nhiễm dioxin cao. Theo sốliệu của các nhà khoa học Mỹ, từ năm 1961 đến năm 1971, đã có khoảng 80 triệu lít hóa chất độc, chứa gần 400 kg dioxin được rải xuống Việt Nam. Đã có khoảng gần 5 triệu người Việt Nam bị phơi nhiễmchất độc da cam. Với liều lượng 1 nanogram (một phần tỷ gram) dioxin đã có thể gây ra bệnh ung thư, tai biến sinh sản ở người và di truyền tới đời con cháu.

Bà tâm sự: Cuộc chiến chống lại chất độc da cam không chỉ là việc chúng ta kiện các công ty hóa chất của Mỹ, mà quan trọng hơn là, mỗi người Việt Nam (kể cả các nhà lãnh đạo) phải nâng cao ý thức, trách nhiệm, sự quan tâm của mình đối với những người bị nhiễm chất độc da cam. Trong thời bình, với những người chưa từng đi qua các cuộc chiến tranh thì khó có thể hiểu và thông cảm thật sự với những nỗi đau mà chiến tranh đã để lại. Đã có lúc bà cảm thấy mệt mỏi, nản chí, không phải vì sự vất vả mà vì chính những quan niệm phiến diện về chiến tranh, về nỗi đau da cam của những người đương thời. Để lấy lại ý chí, bà đã dành thời gian đi đến tất cả các nhà tù, các nghĩa trang, những vùng đất từng là những địa danh khốc liệt trong thời chiến để tự nhủ với mình “đã có biết bao nhiêu người ngã xuống, mình còn sống thì còn phải chiến đấu”. Khi trở về, bà như được tiếp thêm sức mạnh để tiếp tục đi theo con đường mình đã chọn. Ngoài việc tham gia tích cực vào các công tác đoàn thể, bà dành nhiều thời gian cho công tác tuyên truyền. Bà quan niệm: “Việt Nam thắng Mỹ không phải vì sức mạnh quân sự, mà vì công lý và dư luận”, do đó việc tuyên truyền để mọi người hiểu tác hại của chất độc da cam, hiểu những nỗi đau của nạn nhân da cam… là rất quan trọng. Bà đã đi nhiều nơi (cả trong và ngoài nước) để nói chuyện về vấn đề da cam ở Việt Nam và viết hàng chục bài báo đăng tải trên các báo trong và ngoài nước về các vấn đề liên quan đến chất độc da cam. Sắp tới, bà sẽ có 2 bài báo đăng liên tiếp trên 2 số báo phát cho các sứ quán và các tổ chức quốc tế ở Việt Nam về chủ đề chất độc màu da cam. Với mối quan hệ rộng của mình, bà đã kết nối được với nhiều bạn bè quốc tế để cùng đấu tranh cho các nạn nhân chất độc da cam. Đến nay, mạng lưới các nhà khoa học trong và ngoài nước hoạt động tích cực trong lĩnh vực này đã lên tới hàng trăm người. Mặc dù đã ở tuổi 79, song bà vẫn khẳng định: “Tôi sẽ đấu tranh vì các nạn nhân chất độc da cam cho đến hơi thở cuối cùng”.

Nguồn: Tạp chí Hoạt động khoa học, 7/8/2008

Xem Thêm

Đắk Lắk: Người “gieo chữ” ở vùng cao
Có lẽ đây là một biểu tượng đẹp của lòng yêu nghề. thương yêu học trò, luôn tận tâm với nghề, có tinh thần sáng tạo và trách nhiệm xã hội, có phương pháp giảng dạy khoa học giúp học sinh yếu tiến bộ hơn…

Tin mới

Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam: Kiểm điểm, đánh giá chất lượng Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025
Ngày 12/12, Đảng bộ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025. Đồng chí Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì Hội nghị. Tham dự có đồng chí Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam cùng các đồng chí trong BCH Đảng bộ.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng dẫn đoàn Việt Nam tham dự Triển lãm quốc tế về Sáng tạo khoa học công nghệ (SIIF 2025) tại Seoul
Từ ngày 3-7/12, Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) được tổ chức tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Theo lời mời của Hiệp hội Xúc tiến sáng chế Hàn Quốc (KIPA), Quỹ Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC) đã thành lập đoàn tham gia Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) do TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam, Chủ tịch Quỹ VIFOTEC - làm trưởng đoàn.
Tìm giải pháp truyền thông đột phá cho phát triển khoa học công nghệ
Nghị quyết 57-NQ/TW xác định vị thế khoa học, công nghệ và chuyển đổi số là chìa khóa để Việt Nam vươn mình, trở thành quốc gia phát triển. Giới chuyên gia đưa ra lộ trình cụ thể giúp truyền thông chính sách thành hành động, từ xây dựng tòa soạn thông minh đến phát triển hệ sinh thái nội dung số.
Liên hiệp Hội Việt Nam tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ
Chiều ngày 09/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức buổi tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ. Đây là hoạt động tiếp nối tinh thần của Lễ phát động ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên do Liên hiệp Hội Việt Nam tổ chức vào ngày 24/11 vừa qua.
Trí thức Việt Nam đồng hành cùng tương lai Xanh
Đội ngũ trí thức Việt Nam luôn đóng vai trò then chốt với những đóng góp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo, tư vấn chính sách và truyền cảm hứng cộng đồng. Những chuyển động mạnh mẽ về khoa học môi trường, năng lượng sạch, kinh tế tuần hoàn và công nghệ xanh trong thời gian qua có dấu ấn đậm nét của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ nước ta…
Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Sáng ngày 05/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Nữ trí thức Việt Nam (VAFIW) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo”.
Các nhà khoa học giao lưu, thuyết giảng tại trường đại học
Từ trí tuệ nhân tạo (AI), vật liệu bán dẫn hữu cơ, công nghệ y học đến biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học… những buổi trò chuyện không chỉ mở rộng tri thức chuyên sâu mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ về hành trình chinh phục khoa học cho hàng nghìn sinh viên và giảng viên cả nước.