Gỡ nút thắt cho nguồn nhân lực CNTT Việt Nam
Thực trạng nguồn nhân lực CNTT
Trong những năm qua, nhờ các chính sách và biện pháp thực hiện đồng bộ, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực CNTT đạt được một số kết quả đáng ghi nhận. Số lượng các cơ sở đào tạo về CNTT tăng lên đáng kể. Cụ thể, vào năm 2000, cả nước chỉ có 7 khoa CNTT tại các trường Đại học lớn thì đến năm 2011, Việt Nam có 290 trường đại học và cao đẳng có đào tạo về CNTT (tăng 13 đơn vị so với năm 2010), và tổng số chỉ tiêu tuyển sinh CNTT là 64.796 người (tăng trên 4000 chỉ tiêu so với năm 2010). Trong năm 2011, đã có 41.908 sinh viên CNTT tốt nghiệp, 173.107 sinh viên đang tiếp tục theo học và 55.197 sinh viên được tuyển chọn.
Sự phát triển mờ rộng các cơ sở đào tạo về CNTT, đã góp phần quan trọng đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng nhân lực của các doanh nghiệp phần mềm và nội dung số Việt Nam. Năm 2011, ước tính có khoảng 78.894 người làm việc trong các doanh nghiệp phần mềm và 60.200 người làm việc trong các doanh nghiệp nội dung số. Theo đánh giá của của một số chuyên gia trong ngành, so với 3 năm trước đây, chất lượng nguồn nhân lực CNTT đã được cải thiện. Về cơ bản, các doanh nghiệp CNTT Việt Nam đã giảm bớt tình trạng không thể tuyển được lao động trong lĩnh vực CNTT như các năm trước đây.
Mặc dù vậy, so với yêu cầu thực tế nhân lực CNTT của chúng ta còn chưa đạt yêu cầu cả về chất và lượng. Theo đánh giá của các doanh nghiệp, chất lượng nguồn nhân lực CNTT của chúng ta còn rất nhiều hạn chế như hạn chế về trình độ chuyên môn, ngoại ngữ và đặc biệt là kỹ năng làm việc trong môi trường doanh nghiệp hiện đại. Ngoại ngữ vẫn là điểm yếu cố hữu của sinh viên Việt Nam, đa số sinh viên ra trường chỉ dừng lại ở đọc tài liệu kỹ thuật sơ đẳng, hầu như không thể nghe và nói thành thạo. Về đào tạo chuyên môn, đa số các cơ sở đào tạo về CNTT chưa có một chương trình tiêu chuẩn. Mỗi nơi đào tạo theo một chương trình khác nhau, và đa số chưa thích ứng với đối tượng sử dụng lao động. Chương trình đào tạo nặng về lý thuyết và coi nhẹ thực hành dẫn đến sinh viên thiếu cả kiến thức lẫn kỹ năng làm việc sau này.
Về số lượng, Mục tiêu của Đề án đưa Việt Nam sớm trở thành quốc gia mạnh về CNTT - TT, đến năm 2020 chúng ta phải có 1 triệu nhân lực CNTT, trong đó 80% đạt trình độ cao, có thể tham gia thị trường lao động quốc tế. Có thể thấy đạt được mục tiêu này là rất khó khăn, đòi hỏi nhiều giải phát quyết liệt hơn nữa từ phía chính phủ.
Trung tâm CNTT chất lượng cao: giải pháp hiệu quả phát triển nguồn nhân lực CNTT trong ngắnhạn
Để đáp ứng nhu cầu nói trên, trước hết cần nâng cao chất lượng đào tạo CNTT tại các trường đại học và cao đẳng, trong đó chú trọng việc liên kết đào tạo với các trường đại học nước ngoài. Bằng cách kết hợp giữa việc giảng dạy trực tiếp của các giáo sư, chuyên gia nước ngoài với việc ứng dụng công nghệ huấn luyện từ xa qua mạng, các sơ sở đào tạo có thể mở ra hướng đìa tạo nới có chất lượng và hiệu quả cao. Học viên được tiếp nhận kiến thức mớ nhất và kỹ năng ngang tầm quốc tế từ các chuyên gia nước ngoài có khả năng thực hành cao, đồng thời tạo cơ hội cho nhiều người khác cùng tiếp nhận kiến thức này (qua mạng) với chi phí rẻ hơn so với việc mời chuyên gia sang trực tiếp giảng dạy.
Tăng cường đào tạo sau đi làm là giải pháp quan trọng. Do đặc điểm của CNTT là ngành công nghệ cao, quãng thời gian giữa nghiên cứu ứng dụng và sản xuất kinh doanh khá ngắn cho nên cần có cách sử dụng và đào tạo nhân lực riêng biệt. Hơn nữa, do tốc độ phát triển quá nhanh của ngành CNTT cho nên giữa đào tạo và nhu cầu sử dụng nhân lực CNTT luôn có khoảng cách. Phần lớn các kỹ sư CNTT cần có thời gian nhất định để cập nhật kiến thức và kỹ năng mới theo kịp yêu cầu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì vậy, tiếp tục đào tạo, nâng cao trình độ sau khi ra trường là việc làm tất yếu và bắt buộc.
Bên cạnh đó, công tác xã hội hóa đào tạo nguồn nhân lực CNTT cần phải được đặc biệt chú trọng. Đặc điểm của quá trình đào tạo chính quy là kết quả chỉ có thể nhìn thấy trong một thời gian dài, không thể đạt được những đột phá chỉ sau một sớm một chiều. Thời gian đào tạo về CNTT hiện nay là từ 4,5 - 5 năm ở bậc đại học. Với khoảng thời gian đó, giả sử chúng ta có cải thiện ngay toàn bộ hệ thống đào tạo với chất lượng tiên tiến ngay ở thời điểm này thì 5 năm sau mới có lứa sinh viên chất lượng cao đầu tiên ra trường. Như vậy nếu chỉ tập trung vào cải thiện hệ thống đào tạo chính quy, chúng ta sẽ gặp phải khoảng trống về nhân lực trong tối thiểu 5 năm. Để giải quyết vấn đề này một cách hiệu quả, từ năm 2007, trong khuôn khổ Chương trình phát triển công nghiệp phần mềm và Chương trình phát triển công nghiệp nội dung số Việt Nam (ban hành theo Quyết định 51/2007/QĐ-TTg và 56/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ). Bộ TT&TT đã đề xuất đẩy mạnh việc xã hội hóa đào tạo nguồn nhân lực CNTT, trong đó tập trung vào các giải pháp như xã hội hóa đào tạo, đẩy mạnh tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn theo nhu cầu Doanh nghiệp. Qua 5 năm đi vào triển khai, hiện Việt Nam đã xuất hiện rất nhiều trung tâm đào tạo CNTT chất lượng cao trong và ngoài nước. Các trung tâm này với hoạt động chính là tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn đã góp phần bổ sung, nâng cao kiến thức còn thiếu hụt cho đội ngũ sinh viên vừa ra trường cũng như lao động mới đi làm, từng bước giải quyết được bài toán chất lượng nguồn nhân lực CNTT trong ngắn hạn. Các khóa đào tạo ngắn hạn cho Doanh nghiệp của Bộ TT&TT cũng được các Doanh nghiệp đón nhận hết sức nhiệt tình. Các doanh nghiệp cho rằng đây là hướng đi đúng đắn hỗ trợ nhanh nhất, hiệu quả nhất bài toán nhân lực CNTT trong ngắn hạn.








