"Giỏi lắm chỉ được 10%"
Đóng góp, có nhưng chưa nổi bật
- TS Nguyễn Văn Nam, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thương mại:Việt Nam chưa có thống kê trí thức đóng góp bao nhiêu phần trăm cho sự phát triển kinh tế. Nhìn ở góc độ chuyên gia nghiên cứu kinh tế, tôi cho rằng sự đóng góp của lực lượng trí thức rất thấp, giỏi lắm chỉ được 10%. Để tính toán được, chỉ cần tính năng suất tăng được bao nhiêu phần trăm do công nghệ, còn lại bao nhiêu phần trăm nhờ vốn, lao động...
- TS Trần Việt Hùng, nguyên Phó Chủ nhiệm Uỷ ban KH,CN và Môi trường Quốc hội:Khó định lượng vì bản chất của trí thức là đóng góp gián tiếp, do vậy phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Thực tế, các sản phẩm nổi bật thể hiện sự đầu tư chất xám ở Việt Nam ít. Đóng góp lớn cho kinh tế đất nước vẫn là dầu mỏ, than... Công nghệ cao ở Việt Nam chủ yếu nhập khẩu.
- TS Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý kinh tế trung ương:Nói định lượng tri thức đóng góp bao nhiêu phần trăm là khó, không dám nói là chưa nổi bật nhưng còn dưới tiềm năng, dưới yêu cầu, sự đòi hỏi của đất nước.
"Nguyên nhân từ cả hai phía"
"Nền khoa học công nghệ của Trung Quốc đã giúp nước này chinh phục được vũ trụ, tạo ra những thay đổi xuất sắc trong cơ cấu nền kinh tế. Nhìn điều đó để thấy rằng, những nhà trí thức Việt Nam còn nợ đất nước rất nhiều" |
- TS Lê Đăng Doanh:Chúng ta đang thiếu cơ chế cụ thể và không gian để các nhà trí thức đóng góp thực sự có trách nhiệm, đối phó với những vấn đề gai góc, phản biện, phát hiện khiếm khuyết của chính sách, cơ chế. Thực tế, lượng trí thức nghiên cứu có trách nhiệm, có khả năng phát hiện vấn đề, phản biện chính sách, đóng góp vào việc thực tế còn ít.
- TS Nguyễn Văn Nam :Nhiều nghiên cứu nhà nước đặt hàng, nghiệm thu rồi cũng chỉ “cất ngăn kéo”. Nguyên nhân từ cả hai phía. Một mặt, nhà khoa học chưa lăn vào các công việc cụ thể; mặt khác, nhà nước, doanh nghiệp mỗi lần gặp khó khăn, cần gỡ bí lại chưa thực sự cầu thị nhà khoa học. Thậm chí nhiều kết quả nghiên cứu đã có lại bỏ qua rồi đi mua công nghệ của nước ngoài.
- TS Trần Việt Hùng:Số tiền nhà nước dành cho khoa học công nghệ mới chỉ 2% tổng chi ngân sách, bằng khoảng 0,5-0,7 GDP của cả nước. Con số đầu tư này rất ít so với thế giới, vậy mà các nhà khoa học của chúng ta lại không đủ năng lực để dùng hết chỗ đó cho nghiên cứu. Chiến lược đào tạo nguồn nhân lực công nghệ không rõ ràng khiến đội ngũ này chưa theo kịp yêu cầu của sự phát triển kinh tế.
Phải có sức mạnh vật chất
- TS Trần Việt Hùng:Phải thay đổi cách cách sử dụng nhân tài. Nhưng ở Việt Nam , nếp nghĩ khó thay đổi nên nhiều doanh nghiệp nhà nước muốn trả lương cho ai đó cao hơn bình thường cũng khó. Vì đã có thang bậc, nên một ông giám đốc nhà nước muốn trả lương cao để thu hút nhân tài có thể còn bị kiện cáo. Chúng ta đã có Nghị quyết về xây dựng đội ngũ trí thức, nhưng phải chờ thời gian để nhìn thấy hiệu quả rõ rệt.
- TS Nguyễn Văn Nam :Trong khi lực lượng cán bộ khoa học tập trung trong các cơ quan nhà nước đông, đến 90%, phát huy ít, thì một số nhỏ ra làm tư nhân hoặc 1 số công ty nước ngoài lại phát huy được tốt hơn. Nếu thực sự "đẩy" các doanh nghiệp nhà nước ra thị trường, không bao cấp vốn, những người đứng đầu doanh nghiệp này sẽ phải huy động kiến thức của nhiều cái đầu.
Nghị quyết về trí thức ra đời mới chỉ giải quyết được vấn đề nhận thức của cán bộ lãnh đạo, gióng lên được một tư duy mới cần coi trọng đội ngũ trí thức. Từ chính sách đi vào cuộc sống là cả một đoạn trường dài.
- TS Lê Đăng Doanh:Với các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh, giảm bớt các đặc quyền, đặc lợi “xin – cho”. Phải cạnh tranh, doanh nghiệp mới tìm tới các nhà khoa học. Có sức ép lành mạnh, các nhà khoa học sẽ phải nghiên cứu, đóng góp vào thực tiễn tốt hơn. Khi đó việc lạm dụng tiền nhà nước để cho ra những nghiên cứu “cất ngăn kéo” sẽ được ngăn chặn. Chúng ta có Nghị quyết về trí thức, nhưng muốn trở thành xung lực phải có sức mạnh vật chất. Ngoài ra, không gian pháp luật phải rõ ràng để tránh cho những người phát biểu vì lợi ích dân tộc lại bị chụp mũ, bị phân biệt đối xử.
Bằng tiến sĩ, giao việc của cử nhân Không riêng gì lĩnh vực nghiên cứu với lực lượng trí thức trình độ cao, mà ngay cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá… con số đóng góp này cũng chưa nổi trội. Nếu chỉ tính đầu các viện nghiên cứu cũng không thể hiện đúng tình hình thực tế. Vì tiếng là viện nghiên cứu nên họ cố chọn mấy ông là giáo sư, mấy ông tiến sĩ cho gọi là… có đầu mục chứ chưa phải thực sự đặt sự cần thiết có đội ngũ nhân lực trình độ cao. Khác với các doanh nghiệp của nước ngoài, người được tuyển dụng ở các trình độ khác nhau là do yêu cầu công việc. Ví dụ cần tiến sĩ sẽ tuyển tiến sĩ với những yêu cầu công việc tương xứng và mức thù lao tương xứng. Trong khi đó ở Việt Nam , chưa bao giờ người sử dụng lao động có những tính toán cụ thể như vậy. Họ chỉ tính rằng, đơn vị mình, doanh nghiệp mình phải có mấy ông tiến sĩ, mấy ông cử nhân… thế nhưng có khi cả ông tiến sĩ được đưa về cũng không được sử dụng với đúng chuyên môn họ có. Tình trạng này đang rất phổ biến ở Việt Nam , do chúng ta không gắn trách nhiệm của người tuyển dụng. Bằng chứng là ngay cả trong lĩnh vực kinh tế dễ nhìn thấy nhất nhưng cũng chỉ có một vài chuyên gia được gọi là đầu ngành có thể chỉ mặt đặt tên. Thế nhưng ngay cả chuyên gia được gọi là đầu ngành cũng chưa chắc đã giỏi thật. Nói như vậy là vì một số chuyên gia có thành tích khoa học nhưng một mặt “nổi tiếng” là do có chức tước. Còn những người giỏi thực sự, chỉ làm chuyên môn nhiều khi cũng bị chìm trong đám đông. Số giáo sư nhiều, phó giáo sư nhiều nhưng bằng không thực chất. Điển hình so sánh dễ nhìn thấy nhất đó là tỉ lệ cán bộ cao cấp, giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ ở Hà Nội rất đông, trong khi đó ở TP HCM và một số tỉnh miền Tây số này ít nhưng kinh tế lại phát triển hơn Hà Nội. TS Nguyễn Văn Nam |








