Giáo sư Tôn Thất Tùng - Nhà khoa học lớn
Thuở nhở, ông học ở Huế, sau ra Hà Nội học tiếp tốt nghiệp bác sĩ y khoa làm việc ở các bệnh viện Hà Nội.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, ông được cử làm Giám đốc Bệnh viện Phủ Doãn, Hà Nội. Trong kháng chiến chống Pháp, ông làm Cố vấn phẫu thuật ngành Quân y thuộc Bộ Quốc phòng. Năm 1947, ông làm Thứ trưởng Bộ Y tế.
Từ năm 1945, ông làm Giám đốc Bệnh viện hữu nghị Việt Đức, giáo sư tại trường Đại học Y khoa Hà Nội. Ông là đại biểu Quốc hội liên tục nhiều khoá và giữ các chức vụ: Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Viện sĩ Viện Hàn lâm Y học Liên Xô, hội viên Hội Quốc gia những nhà phẫu thuật nước Cộng hoà Dân chủ Đức và nhiều tổ chức quốc tế khác.
Tôn Thất Tùng đã dành cả đời mình cho y học. Khi còn là sinh viên nội trú Bệnh viện Phủ Doãn (nay là Bệnh viện Việt Đức), năm 1938, làm nhiệm vụ mổ xác để kết luận chẩn đoán đúng sai, Tôn Thất Tùng đã có những nhận xét: Sách nói sỏi mật nằm trong túi mật, nhưng thực tế đối với người Việt Nam, sỏi lại hay ở trong gan, và con giun đũa thì ở ruột non, ruột thừa, ống mật, ống gan, mạch máu, phế quản… đều thấy nó. Từ đó, một cơ chế bệnh lý mới về bệnh gan mật được hình thành trong ý nghĩa của Tôn Thất Tùng. Và nhiều người bệnh đã được cứu sống.
Từ năm 1935 đến 1939, Tôn Thất Tùng đẫ phẫu tích trên 200 lá gan người chết, vẽ thành sơ đồ, và chỉ bằng dụng cụ thô sơ, ông đã nạo đi tổ chức gan, phát hiện hệ thống mạch máu trong gan. Từ đó, ít năm sau, Tôn Thất Tùng đã cống hiến cho y học thế giới cách mổ gan khô. Với cách mổ truyền thống, các thuỳ gan bị cắt ngang sẽ chảy máu, mà cầm máu ở gan thì rất khó. Với Tôn Thất Tùng, cắt gan như kiểu người ta tẽ từng múi bười, múi bệnh loại bỏ, múi lành vẫn nguyên vẹn. Xác định ranh giới từng múi là nhờ hệ thống mạch máu được phát hiện. Khi cắt thuỳ gan nào thì phải thắt trước các mạch máu cho thuỳ gan đó. Nói tóm lại, mổ khô là mổ không để gây chảy máu. Giáo sư đã sáng tạo ra “Phương pháp mổ gan Tôn Thất Tùng” được giới y khoa thế giới công nhận và ứng dụng. Hai học trò cưng của giáo sư là Đỗ Kim Sơn và Tôn Thất Bách trở thành cặp bài trùng từng được mời đi thuyết giảng và trình diễn lâm sàng tại nhiều nước châu Âu, châu Mỹ….
Tôn Thất Tùng thực hiện nhiều đề tài nghiên cứu mà nhiều người ít quan tâm như: Đề tài nghiên cứu con giun, xây dựng lý thuyết và nhiều cơ chế bệnh lý, phát hiện bệnh giun chui ống mật và đã cứu sống được nhiều người.
Tôn Thất Tùng có nhiều cách chuẩn đoán và phẫu thuật thần kỳ, trở thành nhân vật huyền thoại về tài năng điều trị bệnh.
Ông lưu ý với các nhà quản lý rằng, nghiên cứu khoa học là một loại lao động phức tạp, tinh vi kết hợp cả chân tay và trí óc, nếu chỉ qua sách vở thì đấy là “triết học”. Theo ông, khoa học là cuộc vùng lên không ngừng của trí tuệ con người đối với mọi sự việc (*). Ông đòi hỏi người làm khoa học phải dũng cảm và chân thực. Có dũng cảm mới dám chân thực và có chân thực mới phát hiện cái mới. Ông đã lên án tội ác của kẻ xâm lược dùng khoa học để phá huỷ con người và môi trường sống. Ông đã nghiên cứu rất sớm tác hại của chất độc màu da cam và báo động cho nhân loại.
Những vấn đề trên được ông trình bày trong nhiều bài báo được đăng tải rải rác trên các báo trong nước, đến nay, đọc lại, càng thấy sự sâu sắc của ông về nhiều lĩnh vực xã hội.
Giờ giao ban buổi sáng ở bệnh viện do ông làm giám đốc, từ vị chủ nhiệm khoa đến sinh viên Y khoa đều thu nhận được thêm những kiến thức về chuyên môn, về đạo lý làm người, về đời sống thường nhật.
Không chỉ là nhà khoa học lớn, giáo sư còn đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước. Tôn Thất Tùng còn là một nhà báo, nhà thơ. Trong con người ấy, còn ẩn chứa một hồn thơ.
Khi còn là sinh viên, Tôn Thất Tùng có lần gửi cho nhà thơ lớn của nước Pháp Paul Valéry (1871-1945) mấy bài thơ do ông sáng tác bằng tiếng Pháp. Paul Valéry rất thích thú với mấy bài thơ ấy.
Trong lời đề từ cho tác phẩm “ Đường vào khoa học của tôi” Giáo sư Tôn Thất Tùng chọn mấy câu thơ sau:
Bền bỉ bền bỉ trong lòng xanh
Mỗi hạt nhân về thầm lặng
Có thể sinh quả chính cành
(Paul Valéry)
Giữa chiến dịch Thu Đông 1947, ông đã sáng tác 4 câu thơ trong bài Hồi tưởngđể tặng các học trò của ông:
… Chúng ta sẽ gặp nhau, cái hạnh phúc yên bình
Đạm bạc sống căn nhà tranh yên tĩnh/
Lúa lại xanh trên những cánh đồng xanh
Những lứa đôi dưới hoa mận đầy cành
Do những cống hiến to lớn của ông trong lĩnh vực y học. Giáo sư Tôn Thất Tùng được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và nhiều huân chương cao quý khác.
Giáo sư Tôn Thất Tùng là Giáo sư Y khoa nổi tiếng về gan và giải phẫu được giới Y học quốc tế đánh giá rất cao.
Ông để lại các tác phẩm chính:
- Viêm tuỵ cấp tính và giải phẫu (xuất bản trước 1945).
- Cắt gan.
- Đường vào khoa học của tôi.
Và nhiều công trình, báo cáo khoa học có giá trị.
Giáo sư Tôn Thất Tùng đã làm rạng rỡ nền y học nước ta bằng những thành tựu khoa học, bằng lý tưởng phục vụ người bệnh và bằng phương pháp tư duy của người đi tìm chân lý khoa học.
Ông mất tại Hà Nội vào ngày 7-5-1982, hưởng thọ 70 tuổi.
Đám tang của ông, những người được ông cứu chữa đã nối dài mãi vào đoàn người đi sau linh cữu bày tỏ lòng thương cảm và biết ơn đối với người thầy thuốc của mình.
_________
(*) Trong bài “Phương pháp khoa học và con người khoa học”
Nguồn: Thế giới trong ta, số 243, 10/05, tr 21