Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 19/03/2014 18:14 (GMT+7)

GIÁO SƯ CAO XUÂN HUY, NHÀ TRIẾT HỌC XUẤT SẮC CỦA THẾ KỈ XX

Theo  Từ điển Văn học (Bộ mới), mục viết của GS Huệ Chi, Giáo sư Cao Xuân Huy sinh năm 1900, tại làng Thịnh Mĩ, tổng Cao Xá, phủ Diễn Châu, nay thuộc xã Diễn Thịnh, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, trong một gia tộc đại trí thức của triều Nguyễn. Ông nội GS là Cử nhân Cao Xuân Dục (1843-1923) là một nhà giáo dục, nhà văn hóa, nhà sử học, nhà văn nổi tiếng cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, từ một vị huyện quan, bằng tài năng và đức độ đã thăng dần các chức Tổng đốc, Thượng thư bộ học, Cơ mật viện đại thần, Phụ chính đại thần, Tổng tài quốc sử quán. Ngài Cao Xuân Dục đã là tác giả và là người chủ trì nhiều công trình lịch sử, địa lí, pháp luật, giáo dục, văn hóa quan trọng và sáng tác nhiều tác phẩm thơ văn xuất sắc để lại cho hậu thế. Cha GS là Phó bảng Cao Xuân Tiếu (1865-1939) cũng làm đến chức Thượng thư và Tổng tài quốc sử quán triều Nguyễn. Cô ruột GS là nữ sĩ Cao Ngọc Anh (1878-1970), một nhà văn thời cận hiện đại Việt Nam, ủng hộ phong trào Đông du và Đông kinh nghĩa thục, chống Pháp, mở trường dạy văn võ cho phụ nữ tại Hà Nội và bị thực dân pháp đóng cửa, thơ văn chất chứa nỗi u sầu của một người dân mất nước.

Thuở nhỏ, theo truyền thống gia tộc, GS Cao Xuân Huy trui rèn chữ Hán cổ và Nho học ngay trong thư viện Long Cương của ông nội ở làng quê cùng với việc tu luyện Pháp văn. Mười lăm tuổi đã đi thi Hương tại trường thi Nghệ An nhưng không đậu, bèn vào học Trường trung học Pháp-Việt và đậu Thành chung vào năm 1922 rồi thi vào học Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương danh giá, đến năm 1925 thì tốt nghiệp trường này, đi dạy trường Quốc học Huế.

Năm 1926, ở tuổi 26 chín chắn về tri thức, GS tham gia Đảng cách mạng Tân Việt. Năm 1927, GS bị thực dân Pháp bắt, bị giải chức khỏi ngạch giáo dục và phải đi đày ở Lao Bảo, sau đó giải về nhà lao Nghệ An và 1929 được tha tù. GS lập gia đình và chuyên chú trước thuật, nghiên cứu nhưng công việc không suôn sẻ. Tuy nhiên trong 6 năm trời đó cũng là thời gian GS nghiền ngẫm tinh hoa tư tưởng, triết học Trung Hoa và Đông phương. Năm 1934, GS vào Biên Hòa rồi Sài Gòn dạy học tại Trường Paul Doumer và Trường Chấn Thanh. Năm 1938 GS về lại Huế dạy học và dốc hết tâm trí nghiên cứu Lão Tử và sớm nổi danh là “Nhà Đạo học”. Ông cộng tác viết luận cho tạp chí giáo dục Revue Pesdagogique ở Huế.

Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945, GS được mời ra giảng dạy môn triết học phương Đông tại Trường Đại học Việt Nam do chế độ mới thành lập. Chiến tranh Pháp Việt ngày càng leo thang, GS về Diễn Châu các năm 1946-1949 làm Hiệu trưởng Trường trung học tư thục Nguyễn Xuân Ôn, đào tạo nhân tài cho vùng tư do của cuộc kháng chiến. Năm 1949, GS là giáo viên Trường trung học chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng kiêm Giáo sư triết học của lớp Đại học Văn khoa đầu tiên mở ở Liên khu IV. Năm 1951- 1954, GS giảng dạy triết học tại Trường dự bị Đại học Việt Nam mở ở Thanh Hóa. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, GS được phân công giảng dạy môn triết học phương Đông, lô gich học, và tâm lí học ở hai lớp Đại học Văn khoa và Đại học sư phạm Văn khoa.Năm 1956, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội được thành lập, GS làm việc tại Khoa Ngữ Văn của trường. Năm 1957 GS được điều động sang giảng dạy tâm lí học tại khoa Ngữ Văn Trường Đại học sư phạm Hà Nội. Năm 1959, Viện Nghiên cứu Văn học được thành lập, GS là một trong những thành viên đầu tiên. Năm 1965, GS Cao Xuân Huy được bổ nhiệm Giáo sư chính lớp Đại học Hán học đầu tiên của chế độ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Năm 1970-1974, GS được điều sang làm Ủy viên Ban Hán Nôm, trực thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam. GS được Trường Đại học Tổng hợp và Trường Đại hoc Sư pham luôn luôn mời làm Giáo sư thỉnh giảng, đào tạo liên tục các thế hệ sinh viên. Giáo sư chính thức nghỉ hưu năm 1974 nhưng vẫn tham gia đào tạo các lớp Hán Nôm cho khoa Ngữ Văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. GS mất năm 1983 tại thành phố Hồ Chí Minh.

Giáo sư Cao Xuân Huy để lại trước thuật không nhiều nhưng đặc biệt tinh túy. Suốt đời GS là một nhà giáo dục miệt mài đào tạo nhân tài cho cách mạng, cho tổ quốc, cho chế độ. Sau này, vào năm 1995, các thế hệ học trò của GS đã tập hợp tư liệu, bài giảng in thành công trình  Tư tưởng phương Đông, gợi  những điểm nhìn tham chiếu. Ngoài ra ông còn có các công trình nghiên cứu, hiệu đính, biên chú về Lê Quý Đôn, Nguyễn Trường Tộ.

Sự tích tụ của hiên tượng Cao Xuân Huy có thể thấy qua các phương diện:

-Thừa hưởng trí thông minh thiên bẩm từ dòng dõi gia tộc, được rèn cặp nghiêm khắc theo phong cách cổ học phương Đông, sống đằm mình trong không khí học thuật, trong thư viện gia đình với phong phú tối đa về từ thư, sách vở. Phong cách khảo cứu và khái quát hóa tư liệu từ một gia đình 2 đời là Tổng tài quốc sử quán đã tạo điều kiện cho tri thức, trí tuệ của GS sớm phát triển, sớm định hình. Học phong và quá trình tu luyện bản thân là nền tảng cho tư duy xuất sắc của GS. Học phải có dòng là vậy.

-Nhưng học phong và trui rèn thì nhiều gia tộc trí thức đều có. Cái thứ hai làm nên GS Cao Xuân Huy phải là sự tiếp xúc sớm với tư tưởng và triết học phương Tây. Chính điều này làm GS có cơ sở tham chiếu để vững tâm đi vào con đường nghiên cứu hình nhi thượng triết học của mình.

-Nhưng cả hai điều đó cũng nhiều người có được. Điều thứ ba, đó là sự lựa chọn triết học phương Đông phong phú và phức tạp, khó minh giải, đặc biệt với Phật giáo và Đạo giáo, hai hệ thống triết học cao cấp và chính danh nhất tạo ra thế giới quan Đông phương, làm mục tiêu tiếp cận của mình để tham chiếu với Tây phương. Sự lựa chọn này là sớm và độc đáo, đầy khó khăn vì không phải ai cũng có điều kiện quan tâm sâu sắc.

-Cái thứ tư làm nên nhân cách GS là tấm lòng yêu nước thiết tha, không chịu cam tâm làm vong quốc nô. GS sớm tham gia Đảng cách mạng Tân Việt hoạt động chống Pháp, và sau này đứng hẳn về lực lượng kháng chiến kiến quốc, xây dựng một chế độ dân chủ cộng hòa, đấu tranh bảo vệ tổ quốc.

-Cái thứ năm làm nên nhân cách của GS là tư tưởng cách mạng. Sinh ra và lớn lên trong gia tộc đại trí thức phong kiến nhưng cũng như nhiều trí thức đầu thế kỉ XX, sớm tiếp thu ánh sáng Tự do- Bình đẳng- Bác ái của cách mạng tư sản Pháp và sau này tiếp thu Biện chứng pháp của Các Mác, tư tưởng GS Cao Xuân Huy là tư tưởng mang tính cách mạng trong học thuật, trong thực tiễn truyền dạy triết học, văn hóa.

-Cái thứ sáu đó là đạo đức và nhân cách của con người giáo dục, dạy người không biết mỏi trong mọi điều kiện khó khăn nhất của chiến tranh và đời sống kinh tế, ung dung tự tại của người nắm trong tay tri thức tối thượng để tư duy và nhìn nhận thời cuộc.

Hội tụ sáu điều đó, một sự hội tụ không phải lúc nào cũng diễn ra, làm cho GS Cao Xuân Huy, cùng với GS Trần Đức Thảo, trở thành hai nhà triết học xuất sắc nhất, có tư duy triết học trong trẻo nhất, thuần khiết nhất của Việt Nam thế kỉ XX, được giới trí thức tôn vinh, các học giả thế thừa nhận. Ở đẳng cấp đó, chỉ có hai mà thôi!.

Phải nói đến tư tưởng triết học độc sáng và xuất sắc của GS Cao Xuân Huy. Đó là chuyên khảo triết học được hoàn thành vào năm 1958, mà sau này khi in, các học trò đặt tên là  Chủ toàn và chủ biệt – Hai ngã rẽ trong triết học Đông Tây.

Không thấm nhuần triết học phương Tây không thể so sánh được và không uyên súc triết học phương Đông cũng không thể có phát kiến sớm này. Giáo sư Cao Xuân Huy đã đụng đến cõi cơ bản nhất, cao cấp nhất mà một tư duy trừu tượng, một tư duy khái quát triết học có thể đạt đến trong so sánh Đông Tây. Đối với triết học phương Tây cho đến giữa thế kỉ XX, cũng như quan niệm chung về triết học hiện nay của chúng ta, hai phạm trù Tồn tại và Ý thức, mối quan hệ giữa chúng, vẫn, vốn là hai phạm trù tối thượng của tư duy triết học. Triết học duy tâm hay triết học duy vật được thử thách qua hòn đá thử vàng đó. Một tư duy nhị nguyên được xác lập từ nguồn cội của nó. Song với triết học Đạo giáo, triết học Phật giáo và với lý thuyết quản trị xã hội của Nho giáo (tất nhiên là có quan hệ tất nhiên với hai triết học trên trong lịch sử) vấn đề dường như không dừng lại ở đó. Các triết học này muốn đi đến tận cùng của cả Tồn tại và Ý thức và các khái niệm Vô-Hữu, Sắc-Không, Thực-Huyền… ra đời trọng mối quan hệ tận cùng nhất thể. Vừa nhất nguyên vừa nhị nguyên. Ý thức không chỉ là phản ánh Tồn tại mà chính nó cũng là một Tồn tại, hiện hữu khách quan như chính Tồn tại. và cả Tồn tại và Ý thức, không chỉ là tương tác phổ biến, mà đều cùng vận hành theo những quy luật phổ quát mà cả Phật và Lão đều chung tên gọi là ĐẠO. CáiThường Đạođó vận hành vĩnh cửu như những quy luật phổ biến nhất, trong sự tương tác mãi mãi, không tách biệt. Và vì thế, nó đạt đến tính chất CHỦ TOÀN trong triết học. Lão Tử trả lời Khổng Tử:

“Đạo khả đạo phi thường đạo. Danh khả danh phi thường danh. Vô danh thiên địa chi thủy. Hữu danh vạn vật chi mẫu” (Cái có thể gọi là Đạo, như ông vẫn nghĩ, là không phải cái Đạo hằng xuyên như tôi đang quan niệm đâu! Cũng như cái có thể gọi là Danh, cái ông đang muốn biết, không phải là cái thường danh như  quan niệm của tôi , nó là việc định danh, là cái biểu hiện của cái được biểu hiện. Khi chưa có nhận thức của con người lúc đầu tiên thì tất cả là vô danh. Nhưng khi đã có việc nhận thức và việc đặt tên, nó lại phạm trù hóa Tồn tại để giúp ta Ý thứcvề Tồn tại). Đạo học bắt đầu từ những mệnh đề như vậy để hướng tới Huyền tẫn chủ toàn. Phải chăng, con đường của khoa học tự nhiên hiện đại đang tiến tới lí giải sự hài hòa tuyệt đối, cơ bản của vũ trụ khởi nguyên. Chủ toàn và chủ biệt trong tương tác tham chiếu để đi tới nhận thức toàn bộ vũ trụ.

Bài học của GS Cao Xuân Huy vẫn vẫy gọi lớp lớp các thế hệ trí tuệ Việt Nam hướng tới. Cho đến nay, viết về GS cũng chi là việc bẻ que đo trời mà thôi./.

Xem Thêm

Tôn vinh và tri ân một nghề cao quý nhất
Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 hằng năm là dịp để toàn xã hội tôn vinh và tri ân những người thầy, người cô đã tận tụy cống hiến cho sự nghiệp trồng người. Đây không chỉ là ngày lễ ý nghĩa trong ngành giáo dục mà còn mang tính nhân văn sâu sắc, gắn kết tinh thần “tôn sư trọng đạo” - truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
GS.TSKH Nguyễn Đức Cương: Khoa học phải luôn mở rộng hợp tác và học hỏi
GS.TSKH Nguyễn Đức Cương, một trong những nhà khoa học hàng đầu về hàng không - vũ trụ của Việt Nam, đã có hơn nửa thế kỷ cống hiến cho ngành khoa học kỹ thuật hàng không vũ trụ. Không chỉ là người đặt nền móng cho các sản phẩm bay tiết kiệm chi phí cho Việt Nam, ông còn là người thầy tâm huyết, truyền cảm hứng và kiến thức cho nhiều thế hệ trẻ…
An Giang: Người thắp lửa sáng tạo cho học sinh tiểu học
Đam mê đặc biệt với khoa học và sáng tạo, thầy giáo Nguyễn Văn Trung đã không ngừng nỗ lực truyền cảm hứng cho học sinh tiểu học, đồng thời hướng dẫn các em đạt được những thành tích ấn tượng ở cả cấp tỉnh lẫn cấp quốc gia.
Phú Yên: Những nữ trí thức góp phần cải thiện đời sống người dân
Trong thời kỳ hội nhập, sự phát triển của khoa học và công nghệ đóng vai trò là nền tảng thúc đẩy các ngành kinh tế - xã hội khác phát triển. Đặc biệt, trong lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH&CN) nữ trí thức không chỉ thể hiện khả năng sáng tạo, nghiên cứu mà còn góp phần tạo ra những ứng dụng thực tiễn giúp cải thiện đời sống người dân và phát triển kinh tế.
Tấm gương sáng trong nghiên cứu và bảo tồn di sản lịch sử
Ông sinh năm1948 tại Phường Hồng Hà, thị Yên Bái, là nhà khoa học tâm huyết, là tấm gương sáng về lòng kiên trì, sự đam mê nhiên cứu và cống hiến hết mình cho sử học của tỉnh Yên Bái. Những đóng góp của Nguyễn Văn Quang đối với ngành sử học đã để lại những dấu ấn sâu sắc và có ý nghĩa to lớn trong việc bảo tồn di sản lịch sử địa phương nơi có nhiều di tích lịch sử và văn hóa dân tộc vùng cao.
Trí thức tiêu biểu Nguyễn Tiến Quyết - Người chinh phục khoa học để lấy mạng sống cho con người!
Nhắc đến ông là nhắc đến chân dung của một người thầy thuốc tâm huyết, nhà khoa học nhiệt thành và một nhà giáo với tình yêu nghề đậm sâu. Có thể nói, xuyên suốt chặng đường cống hiến không ngừng nghỉ đã qua, bằng tâm sức, niềm đam mê khoa học bất tận, ông đã có những cống hiến đáng tự hào cho nền y tế nước nhà.

Tin mới

Cụm thi đua số 3 tổng kết công tác năm 2024
Ngày 22/11, tại thị xã Sa Pa, Hội nghị tổng kết công tác thi đua, khen thưởng năm 2024, triển khai phương hướng nghiệm vụ năm 2025 của Cụm thi đua số 3 do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Lào Cai làm cụm trưởng đã được tổ chức.
Quảng Ngãi: Tuyên truyền chủ trương của Đảng cho trí thức
Chiều ngày 19/11, Liên hiệp Hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức hội nghị thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề: “Tình hình xung đột Israel-Hamas, Hezbollah; xung đột Nga-Ukraine. Tác động và xử lý của Việt Nam”.
Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp giảm thiểu tác động của đốt mở tại Việt Nam
Mặc dù 68% số người được khảo sát có ý thức về môi trường, 80% có ý thức về sức khỏe, nhưng vẫn thể hiện sẽ tiếp tục “đốt đồng” (đốt lộ thiên/đốt mở trong nông nghiệp), với lý do chủ yếu “vì tin có tác dụng tốt, nhanh, rẻ”. Do vậy, cần có giải pháp truyền thông phù hợp để thay đổi thói quen này.
Phát huy vai trò, trách nhiệm của trí thức KH&CN & LHHVN trong hoạt động của MTTQVN các cấp
Nhằm thảo luận, đề xuất các giải pháp đẩy mạnh và phát huy sức mạnh trí tuệ của đội ngũ trí thức trong hệ thống LHHVN tham gia vào các hoạt động của MTTQVN, nhất là trong hoạt động TV,PB&GĐXH, LHHVN tổ chức Hội thảo Giải pháp phát huy vai trò, trách nhiệm của trí thức trong hoạt động của MTTQVN các cấp. Hội thảo được tổ chức vào chiều ngày 19/11, tại trụ sở LHHVN.
Tôn vinh và tri ân một nghề cao quý nhất
Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 hằng năm là dịp để toàn xã hội tôn vinh và tri ân những người thầy, người cô đã tận tụy cống hiến cho sự nghiệp trồng người. Đây không chỉ là ngày lễ ý nghĩa trong ngành giáo dục mà còn mang tính nhân văn sâu sắc, gắn kết tinh thần “tôn sư trọng đạo” - truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Mạng lưới cơ sở giáo dục đại học phải đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng cao
Việc quy hoạch lại hệ thống cơ sở giáo dục đại học và sư phạm giúp các cơ sở này nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu và khả năng thích ứng với những thay đổi của xã hội và nền kinh tế, cần tính toán nhu cầu đặc biệt quan trọng của đất nước về nguồn nhân lực chất lượng cao như kỹ sư bán dẫn, kỹ sư vận hành đường sắt tốc độ cao…