Giải pháp quy hoạch, quản lý xây dựng “phường làng”
Những năm qua, với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tỷ trọng công nghiệp dịch vụ tăng mạnh mẽ kéo theo tốc độ đô thị hóa rất nhanh. Nhiều khu đô thị, khu công nghiệp mới hình thành. Các khu đô thị cũ được chỉnh trang tái thiết đã làm cho bộ mặt đô thị thay đổi. Hàng loạt nhà cao tầng hiện đại, kiến trúc đa dạng hơn được xây dựng. Tuy vậy, một tình trạng đáng lo ngại là hàng triệu người dân sống trong các làng, ngõ xóm bị “đô thị” hóa một cách ồ ạt, lộn xộn tạo nên một vùng nhà ở ổ chuột kiểu mới, là các khu ngõ ngách, tạm gọi với tên là “phường làng” không ánh sáng mặt trời, đường xá chật hẹp, hạ tầng kỹ thuật yếu kém, ngập úng, điều kiện sống tồi tệ, trẻ em không có chỗ chơi, người già không có chỗ dạo, xảy ra sự cố, xe cứu hỏa không thể vào, xe cứu thương không kịp cấp cứu…
Hiện tượng này tồn tại không chỉ là các phường làng trong các quận nội thành mà còn đang “phát triển”; tồn tại ở các “làng xóm” ngoại thành bên cạnh các khu đô thị, khu công nghiệp mới.
Chính quyền làm ngơ, luật thì bỏ sót
Nguyên nhân của tình trạng trên, theo ông Hùng ,trước hết là công tác lập quy hoạch và quản lý quy hoạch đô thị thời gian dài trước đây, đặc biệt là lập và quản lý quy hoạch tái thiết, chỉnh trang đô thị cũ không được quan tâm đúng mức, trong khi đòi hỏi bức xúc của người dân cần cải thiện điều kiện nhà ở. Khu vực làng xóm trong nội đô nay được “nâng cấp” đổi tên là phường hầu hết là nhà cấp 4 nằm trong làng xóm với lối đi là các ngõ ngách ngoằn ngoèo, chật hẹp. Trước yêu cầu cần cải thiện nhà ở do tăng dân số tự nhiên, tăng dân số cơ học điều kiện kinh tế lại eo hẹp hầu hết các gia đình đã chia nhỏ mảnh đất của cha ông để lại cho các con cháu tự xây dựng, họ lại chia tiếp để bán cho dân ở ngoại tỉnh về để tự làm nhà ở trong khi quy hoạch chi tiết chưa có, thiếu cơ sở quản lý. Hơn thế nữa, nhiều năm qua, ở vùng làng xóm, nông thôn giáp danh này khi xây dựng lại không cần xin phép, hoặc xin phép chiếu lệ xin một đằng làm một nẻo, quản lý lỏng lẻo, thanh tra xây dựng làm ngơ, công trình xây dựng bị khuất nẻo trong khu vực làng xóm, người dân lại tận dụng tấc đất, tấc vàng lấn chiếm lối đi chung, cùng “bảo nhau” lấn chiếm. Và cuộc lấn chiếm này có khi tiến hành làm nhiều đợt nhiều năm, năm nay lát thêm “vỉa hè” lấn chiếm lối đi, quây thêm bức tường tạm, năm sau quây bằng vật liệu tốt hơn, năm sau xây tường lại lấn thêm vỉa hè lối đi. Cứ thế diện tích chiếm đất ngày càng lớn, nhà càng cao, xây dựng lộn xộn đủ kiểu kiến trúc hình hộp, hình ống, siêu nhỏ, siêu mỏng, siêu méo, lối đi càng nhỏ hẹp, xây dựng hạ tầng kỹ thuật không theo kịp dẫn đến úng, ngập, giây điện chằng chịt, ban công giáp nhau, tối tăm, ẩm thấp. Kèm theo đó là công trình hạ tầng xã hội không được đầu tư, không có khu sinh hoạt cộng đồng, trường học cũ bị bao vây lấn chiếm tứ phía, chợ cóc mọc khắp nơi, điều kiện sinh sống ngày càng tồi tệ, người già không có chỗ dạo, trẻ em không có chỗ vui chơi.
Một nguyên nhân nữa theo Chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam là các cơ chế chính sách liên quan đến cải tạo, tái thiết các khu vực “phường làng” không được đặt đúng tầm trong quy hoạch và quản lý đô thị. Trong Luật Quy hoạch đô thị, thiếu các quy định cụ thể về việc tái thiết đô thị nói chung, đặc biệt tái thiết, chỉnh trang khu “phường làng ngõ xóm”.
“Khi góp ý dự thảo Luật Quy hoạch đô thị, chúng tôi đã đề nghị có 1 Chương riêng: Quy hoạch cải tạo, tái thiết khu đô thị cũ bao gồm 2 lĩnh vực: Khu “phường làng ngõ xóm” và Chỉnh trang tái thiết các đường phố khi mở đường mới. Rất tiếc rằng Luật Quy hoạch Đô thị không có các chương điều riêng liên quan đến lĩnh vực này” – ông Hùng cho biết.
Bên cạnh đó, theo ông Hùng, hiện còn phổ biến tình trạng “ưu tiên” trong chỉ đạo điều hành xây dựng và quản lý quy hoạch đô thị. Những khu vốn trước đó là đất nông nghiệp, ao hồ, nơi công tác đền bù giải phóng mặt bằng thuận lợi thường được ưu tiên lập quy hoạch, phê duyệt dự án xây dựng khu đô thị mới trước. Trong khi đó, các phường làng bị lãng quên do công việc quy hoạch vừa khó vừa không mang lại “hiệu quả” cho người lập quy hoạch, người tham mưu và người duyệt quy hoạch.
Một nguyên nhân nữa làm chậm tiến độ lập quy hoạch khu vực phường làng là chưa có cơ chế minh bạch để định hướng cải tạo khu vực phường làng.
Luật hóa công tác tái thiết đô thị
Để cải thiện tình trạng trên, theo ông Hùng cần sửa đổi Luật Quy hoạch đô thị, trong đó bổ sung một Chương riêng quy định các điều liên quan đến chỉnh trang tái thiết đô thị (tái thiết đô thị chỉnh trang đường phố, mở rộng, tái thiết khu làng xóm cũ nay chuyển thành phường…). Trên cơ sở đó, sửa đổi các định mức chỉ tiêu kinh phí khi thực hiện các dự án quy hoạch chi tiết khu vực này, trong đó tăng nguồn kinh phí cho công tác khảo sát hiện trạng (đất đai, nhân khẩu, nguyện vọng của dân), công tác lập và duyệt (tăng nguồn kinh phí, sự tham gia của cộng đồng dân cư).
Khi tái thiết đô thị, theo ông Hùng, cần có giải pháp đồng bộ về quy hoạch, quản lý quy hoạch; quỹ đất để di chuyển đền bù giải phóng mặt bằng; nguồn kinh phí thực hiện; cơ chế công khai, dân chủ, vận động đóng góp của dân (được hưởng lợi) thông qua các cuộc hội nghị của dân cư trong địa bàn, kể cả các giải pháp quyết liệt của cơ quan quản lý nhà nước.
“Các tỉnh, thành phố triển khai đề án tổng kiểm tra toàn bộ các khu vực phường làng – ngõ xóm (mật độ dân số, diện tích ở, hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội…) để triển khai đồng bộ công tác lập quy hoạch chỉnh trang tái thiết khu đô thị cũ. Đồng thời ban hành các quy định cụ thể trong quản lý xây dựng khu vực cũ cũng như các “làng xóm” sắp tới đây trở thành “phường” khi phát triển mở rộng, khu công nghiệp khu đô thị mới” – ông Hùng đề xuất.








